LƯỢC TRÍCH CHƯƠNG TRÌNH TÁC GIẢ - TÁC PHẨM CỦA NHẠC SĨ HỒ BẮC TẠI VIỆN ÂM NHẠC

08:00 AM, Thứ tư, 15/10/2025
442

Tác giả: Hồ Bắc

 

 

Nhạc sĩ Hồ Bắc:

Kính thưa các nhạc sĩ, tôi rất cảm động, hôm nay trời rét mà các vị đã đến đây là sự cổ vũ cho tôi rất nhiều. Anh Lê Toàn mời nhiều lần nhưng tôi cũng khất lần mãi vì tôi rất ngại: từ thuở bé chưa bao giờ nói chuyện trước đám đông như thế này, trừ trường hợp dạy học. Trước anh Huy Du, anh Nguyễn Văn Quỳ, Hoàng Dương, Vĩnh Cát, Ngọc Thanh…, tôi không dám múa rìu qua mắt thợ. Hôm nay, rất tiếc trong một số bạn bè tôi mà Viện có nhã ý mời đến dự chỉ có giáo sư Hồ Thuần là em ruột của tôi, Sáng nay anh Xuân Oanh, anh Nguyễn Đức Toàn gọi điện cho tôi ho sù sụ trong telephone báo không thể đến được vì bị cúm rồi.

Tôi không tham vọng trình bày nhiều về học thuật, đối với tôi nói chuyện về học thuật âm nhạc với các anh các chị ở đây là múa rìu qua mắt thợ. Tôi chỉ xin trình bày đơn giản tôi đi vào con đường âm nhạc như thế nào, từng giai đoạn có những tác phẩm gì, những kỷ niệm không thể nào quên được, may mắn và bất hạnh, những buồn vui trong cuộc đời làm âm nhạc của tôi.

Tôi sinh ra ở một làng quê Kinh Bắc, cái làng đó có rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Diễn viên có ông Tuấn Tú chuyên đóng Tây, nhà văn có ông Kim Lân, Nguyễn Đình Dũng, còn dịch giả có Hoàng Thúy Toàn… Làng tôi tướng lĩnh có, bộ trưởng có, chỉ chưa ai vào Bộ Chính trị thôi, nói chung hoạt động cách mạng rất nhiều.

Gia đình tôi có hai anh em: tôi và giáo sư Hồ Thuần. Tôi lớn lên trong không khí cách mạng, ông già tôi là nhà báo của báo Le Travail (báo Lao động), báo tin tức của Mặt trận bình dân từ năm 1936. Bạn bè ông có Trường Trinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Hảo, Trần Huy Liệu, Nguyễn Văn Cừ… Khi bị tù ông quen nhiều. Hay qua lại nhà tôi là ông Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nam và nhiều nhân vật khác. Từ bé đã được tiếp xúc như vậy nên tôi hiểu thế nào là cách mạng. Ông già tôi cũng muốn hướng con vào con đường chân chính, tức là một người cách mạng. Trước Cách mạng Tháng Tám tôi được giao nhiệm vụ đưa thư từ và đưa những người tù Sơn La trốn trong nhà bà ngoại tôi ở cuối xóm, nói dối ông này là lái trâu hay ông giáo làng bên ra chơi. Có một người đã ở nhà tôi và tôi đưa đi trốn, sau nhờ anh đó mà tôi, anh Chu Duy Kính và một anh nữa thoát chết: người ta tưởng chúng tôi đi dò la tin tức Việt Minh nên định thủ tiêu, may mà có anh cán bộ nhận ra tôi. Đấy là một kỷ niệm.

Khi đi học ở trường Chu Văn An sơ tán trong Hà Đông, bố tôi đưa tôi tới ông Bí thư Tỉnh ủy Hà Đông ở nhờ, khi thì nói với ông Xuân Thủy cho ở nhờ cái gác  Hàng Trống, ông Xuân Thủy đưa tôi tới ở với anh Đỗ Nhuận. Tôi nhớ là anh Đỗ Nhuận chiếm một buồng to ở trên gác, có cái buồng tắm, bỏ hố xí đi còn lại bồn tắm thôi. Hai anh em nằm trong cái bồn tắm ấy một thời gian. Anh Đỗ Nhuận dạy tôi những bài Hận Sơn La, Chiều tù, Côn Đảo, Hận Nam Quan...

3/1945 tôi đi theo anh Nguyễn Trọng Tỉnh, sau này là Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, còn tôi ở trong Ban Cán sự thanh thiếu niên của Tỉnh ủy Bắc Giang. Khi làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Yên, anh Tỉnh cũng kéo tôi lên đó một thời gian. Anh Tỉnh nói với tôi: cậu về đi học đi, hãy còn trẻ (lúc ấy mới 16 tuổi). Tỉnh ủy cử đi học lớp Huynh trưởng thiếu nhi khóa Bác Hồ đầu tiên của Việt Minh mở ở Yên Phụ. Cán bộ mỗi tỉnh cử một người đi học, lớp học độ mấy chục người thôi. Cán bộ phụ trách là anh Hồ Trúc. Các anh Lưu Hữu Phước, Phong Nhã dạy chúng tôi hát. Anh Phong Nhã dạy Nhanh bước nhanh nhi đồng, Ai yêu Bác Hồ Chí Minh; anh Lưu Hữu Phước dạy Hờn sông Gianh Bạch Đằng Giang. Đấy cũng là những bài hát tủ sau này tôi đi hát khắp nơi.

Sau tôi được đưa về trường Phan Chu Trinh là trường đầu tiên của Việt Minh, Hiệu trưởng là cụ Đặng Thai Mai. Được ít lâu trường sơ tán chỗ khác. Tôi loanh quanh học các trường Văn Lang, Thăng Long, Bưởi. Kháng chiến chống Pháp tôi ra học trường Hàn Thuyên ở Bắc Ninh. Năm 1948 thi Diplom trượt thì mò lên trường Ngô Sĩ Liên tức là trường có anh Vũ Tự Lân. Lớp anh Vũ Tự Lân có Đặng Xuân Kỳ (là con ông Trường Chinh), Phan Thu (sau là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng). Tôi học lớp trên.

1949-1952 tôi đi bộ đội. Tôi đã viết Làng tôi, Gặt nhanh tay. “Gặt nhanh tay, hái nhanh tay, ta gánh về thôn trang” - bài này được anh Đào Mộng Long dựng cho múa. Tôi còn viết Về trung du, Bên kia sông Đuống (phổ thơ Hoàng Cầm). Lúc đầu tôi không muốn bước vào âm nhạc. Người đời lúc bấy giờ không coi trọng âm nhạc lắm. Tôi cố gắng làm cán bộ nghiên cứu của Bộ Tổng tư lệnh. Được một thời gian về quân khu Việt Bắc gặp anh Hoàng Cầm phụ trách Đoàn Văn công, Nguyễn Đức Toàn là phó đoàn, trong đó có Văn An, chị Nga, cô Thậm hát dân ca rất hay, tôi thích lắm. Các anh bảo làm nghiên cứu vẩt vả lắm, tướng cậu không hợp nghiên cứu. Nhưng tôi vẫn nhất định không về văn công.

Đi đâu tôi cũng kéo violon những bài học từ năm 1945 với nhạc sĩ Lương Ngọc Châu, người chơi violon rất giỏi ở Hà Nội lúc bấy giờ. Tôi học chỉ một-hai tháng vì tiền học đắt quá, chiếm hết tiền bố cho cả tháng. Học được mấy bài tủ - Millions d'Arlequin, Serenade, Méditation (Thaïs) - cộng với những Thiên Thai, Chiều tù, Trương Chi tôi cứ kéo văng mạng đi.

Nhà tôi ở phố Phủ bên cạnh rạp hát, khi thì đoàn Tuồng đoàn Chèo diễn, khi thì Cải lương ở Hà Nội về. Đoàn Tuồng có kép Tốn, sau này tôi còn chơi với con ông Tốn. Phố tôi có gia đình bà giáo Thu rất khá giả, bà có mấy cô con gái. Tôi độ 14 tuổi, bà giáo Thu biết tôi là người cùng phố bảo tôi vào xem các chị đánh đàn. Có cô học cùng lớp với tôi, có cô ít tuổi hơn và có cô nhiều hơn. Quả đất tròn, năm kia anh Huy Du bảo đến chơi nhà này hình như người ta cũng biết ông đấy. Loanh quanh gặp lại người xưa, đó là cô chị cả, còn các cô em đi Mỹ hết, bà Thục vẫn nhớ tôi. Nhớ lại khi tôi cầm đàn mandoline, tự nhiên thế nào mà đánh được thành bài luôn, những bài xưa nghe đĩa 78 vòng. Đấy bước đầu đến với âm nhạc trong tuổi thơ.

Thời học trường Hàn Thuyên tôi phụ trách ban nhạc của trường. Lúc bấy giờ tôi cũng có viết một số bài như Nữ sinh vui ca, Bầy chim non, Giờ vui chóng tàn, Mùa cưới: “Mùa cưới về đây khắp giờ vàng, bao cô thiếu nữ đợi sang ngang, nhìn theo những chiếc xe hơi bóng êm thoáng lăn trên những lá vàng” hay bài “Gặp nhau trên sườn đồi vắng tôi nhìn không nói một câu…”. Cách đây mấy năm có anh Vũ Khắc Liên học dưới tôi mấy lớp vẫn còn thuộc: “Chiều nay ai về trên khắp đường quê, về mang tươi vui trên khắp xóm làng, chiều nay bao nhiêu con tim rộn rã, tưng bừng như muôn cánh bướm trong hoa…”.

Thời gian đầu phải nói là cũng khó khăn. Tôi vốn không được mạnh mẽ cho lắm nên vào bộ đội được các anh quý. Vì tính tự do quá, khi chuyển ngành sang Đài Phát thanh trong lý lịch của tôi, anh Phó chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, trung tướng Vũ Xuân Chiêm, đã ghi thế này: “Đồng chí Hồ Bắc có tinh thần công tác, chịu khó và đóng góp nhiều cho đội nhưng vẫn còn thích tự do chủ nghĩa”. Ngày xưa “tự do chủ nghĩa” là ghê lắm, không phải như bây giờ muốn hát gì thì hát, viết gì thì viết.  Tôi viết bài Làng tôi “có những nàng ra đứng bên kia sông” bị phê bình chàng với nàng ủy mị quá nên đổi là “nhân dân ra đứng bên kia sông”, thế còn gì là hay nữa. Lúc ấy mình tuyệt đối phục tùng, trên bảo sao nghe vậy chứ không phản kháng gì. Bây giờ mà góp ý kiến như thế mình nổi xung lên rồi.

 Đài Phát thành là môi trường tốt để anh em nhạc sĩ trưởng thành. Tôi không phải đảng viên, nên cũng bị thành kiến, người ta cho là anh này không phải đảng viên không thể tin được, tin vừa thôi. Tôi phụ trách buổi Ca nhạc Quốc tế, được nghe cả kho băng nhạc Beethoven, Mozart, Mendelson, Chopin, Bruckner... Thấy bể nhạc mêng mông quá mà mình không được học, cũng nản, nhưng tôi vẫn cố gắng. Tôi còn làm buổi phát thanh Tìm hiểu âm nhạc. Những bài về kiến thức âm nhạc của anh Khoát, anh Lưu Hữu Phước, anh Nhuận, anh Sáu đã bổ sung kiến thức sáng tác cho tôi. Tôi cũng may mắn được giao đọc bài và có ý kiến trước rồi đưa hội đồng duyệt. Được gặp các bậc đàn anh, nhạc sĩ cùng lứa tuổi và một số anh em nhạc sĩ trẻ, mình học từ họ rất nhiều.

Một chương trình nữa tôi làm là Tiếng hát gửi miền Nam giao lưu hai miền, giới thiệu bài hát tác giả miền Nam gửi ra. Tôi giới thiệu những bài hát ngày xưa của anh Nguyễn Văn Quỳ: Chiều cô thôn, Mây trôi, rồi Gửi em gái miền Nam của anh Đoàn Chuẩn.  

Ngoài ra, tôi còn có một thời đi làm Khắp nơi ca hát với ông Bùi Công Kỳ. Gặp gỡ một số người tài năng tôi giới thiệu đưa về đài, như anh Trần Chung, anh Trần Khánh, Mộng Dung.

Những công việc đó là nguồn vốn. Tôi tự học hoàn toàn, học bạn, học trên đĩa hát, học trên sách vở. Trình độ âm nhạc phải nói là rất kém, anh em họ cứ đùa và nói có ý miệt thị là cái thằng vô học, tôi nghe những tiếng đó cũng đau lắm. May là tôi được ở môi trường tốt, học từ đồng nghiệp từ đàn anh rất nhiều. Anh em nói tôi ít nói. Tại sao tôi ít nói, không phải tính tôi ít nói, nhưng những lúc đông người tôi thường để mọi người nói và tôi nghe tôi học. Mình rỗng tuyếch có cái gì đâu, nghe và học thì tốt hơn. Tôi thân với các anh lớn tuổi hơn như Huy Du, Xuân Oanh, Doãn Mẫn. Anh Sáu thì tôi ít gặp, tôi coi anh là bậc đàn anh. Các anh Nguyễn Văn Quỳ, Cao Nhị, Đặng Đình Hưng, Quang Dũng, Thu Hải lớn tuổi hơn tôi cũng rất thân, họ đến nhà tôi mỗi tối đến 12 giờ mới về, bao nhiêu cái uyên bác của các ông ấy tuôn ra là tôi thu nạp hết để bù lấp vào chỗ thiếu của mình.

Tôi còn học trên tổng phổ và nghe đĩa. Tôi có thể tự hào là người nghe nhiều, cái tủ đĩa nhà tôi bây giờ có hàng nghìn đĩa, không phải đĩa CD đâu, đĩa 33 từ ngày xưa. Tôi có cái thú vừa nghe vừa ngắm đĩa, mỗi đĩa là một bức danh họa. Beethoven có trọn 9 symphonie đĩa do Karajan chỉ huy. Mỗi symphonie còn có các nhạc trưởng khác nữa. Concerto cho violon có David Oistrakh,  Jascha Heifetz… Nghe bao giờ cũng có tổng phổ. Nhà không có gì, có bao nhiêu tiền dốc hết vào đĩa. Ở Đài là thời kỳ nở rộ trong sáng tác của tôi, dù biên tập viên chính là làm báo, trên bảo là phải nghe, bảo đi đâu phải đi, bảo viết gì phải viết. Lúc bấy giờ làm xong giao cho ông Lưu Cầu là người có học hành cẩn thận phối khí.

Khi tôi viết: “Nước mắt trào tuôn rơi/ Say sưa ta một lời/ Mối tình Tổ quốc tôi” nước mắt trào ra lã chã vì cảm động, nhưng anh em chê là ủy mị. Sau đó mấy năm, khi bài hát đã phổ biến, có một đồng chí lãnh đạo tôi không tiện nói tên, nói trước với anh em dàn nhạc: “Tại sao người ta ca ngợi Tổ quốc hùng tráng huy hoàng như thế mà ông Hồ Bắc ca ngợi Tổ quốc buồn thế?!..”. Điều đó làm tôi buồn một chút, nhưng thôi mỗi người một vẻ thôi. Có anh em nói độc địa nhạc của Hồ Bắc như cái xác chết, tôi cũng không giận. Tôi là người không giận ai, không thù ai, tất cả cho qua hết. Có lần ông Cao Nhị nói: “Thằng này có thù gì với ông không mà sao nó bảo Hồ Bắc chả được bài nào cả”. Điều đó cũng làm mình buồn. Nhiều khi trong rủi có cái may: mỗi khi viết tôi đều cố gắng.

Trong những năm 60 tôi viết romance Dòng nước mát được phổ biến rất rộng. Một ông Tổng giám đốc Đài khi gắn huy chương Vì sự nghiệp Phát thanh cho tôi bảo em xưa hát bài Dòng nước mát hay lắm, tức là người ta vẫn còn nhớ sau mấy chục năm. Gửi anh chiến sĩ thông tin trên đảo viết vào lúc đề tài tình yêu cấm kỵ. Mình đã là anh lính gác cửa, không được làm chính ủy của đoàn quân gác cửa đó nên mình phải làm thế nào để người ta không nghĩ là đấy tình yêu. Tất cả những tình cảm đó cái đó tôi chuyển thành tình cảm yêu thương. Kỳ vừa rồi, báo Hải Phòng số Tết có nhờ tôi viết vài cảm nghĩ về sáng tác về Hải Phòng. Tôi viết cho Hải Phòng đến chục bài, đủ cả nhà máy đóng tàu Bạch Đằng, nhà máy xi măng, nhà máy thủy tinh, rồi Cô gái vật tư nông nghiệp, Tình ca Hải Phòng, Biển nơi biển xa, Hải Phòng đáp lời Đảng gọi (lại có cả chính trị nữa). 

Trước khi viết Bến cảng quê hương tôi năm 70, phải gặp Giám đốc và Bí thư Đảng ủy. Họ nói cảng chúng tôi không có gì ngoài mỗi nhiệm vụ là giải phóng hàng nhanh, giải phóng tàu nhanh! Các anh viết thế nào thì viết cho đúng nhiệm vụ đó. Bố ai mà viết được, chả nhẽ lại đưa vào bài hát: giải phóng hàng nhanh giải phóng tàu nhanh. Tôi lang thang trên bến cảng, chợt thấy một cô gái không đẹp gì cả, đầu đội mũ bảo hiểm bịt khăn đang lái xe chở hàng, tự nhiên bật ra: “Ôi cô gái lái xe trên cảng/ Xe em bon nhanh và tóc em bay trên sóng biển quê hương…”. Tìm được ý trong hình ảnh không đẹp, rồi chuyển từ điệu thứ sang trưởng:

Cảng thân yêu ơi, biển quê hương ta ơi,
Tổ quốc đã cho tôi cuộc đời hôm nay
Vì sức sống tin yêu vì một ngày mai
Mùa xuân vang muôn tiếng hát
Trên bến cảng quê ta trung dũng kiên cường…

Xong mới quay lại làm đoạn đầu: “Khi xuân sang trên bến cảng/ Đàn hải âu tung cánh bay rợp trời”. Thật ra lúc ấy làm gì có hải âu, có phải cảng Ođesa hay cảng bên Đức nơi tôi thực sự thấy hải âu đâu, mà tôi cứ bịa ra.

“Chim én báo mùa xuân về/ Tin vui chiến thắng bay về quê nhà/ Sài Gòn ơi ta bước trên đường chiến thắng” cũng do mình tưởng tượng hình ảnh đẹp về mùa xuân, biến tình cảm rạo rực thành cảm xúc viết thành tác phẩm.

Tôi viết Sài Gòn quật khởi năm 68, bài này cùng Tiếng tàu Playegang được giải nhất của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Giải nhất bấy giờ nghèo lắm, chỉ mua được mấy chai bia, không mua nổi một chai rượu đâu. Ngoài ra tôi còn viết về quân đội, viết cho pháo binh, cho thông tin, vì tôi có hai thằng con trong thông tin. Hoa hồng trên điểm tựa viết khi lên sư đoàn 316 là sư đoàn cũ của tôi ở Cao Bắc Lạng, tôi với anh Tân Huyền lên trên chốt, có Văn Dung nữa nhỉ? Đấy, trí nhớ giờ kém, tôi xin lỗi. Viện mà không làm năm nay, chứ sang năm thì không còn gì mà nói, nói không ra hơi ý.

Tôi nhớ hồi đi Hải Phòng có cả các anh Tô Hải, Lương Ngọc Trác, Phan Thành Nam, Nguyễn Ngọc Trác, Huy Du.

Phải nói là tôi có một tham vọng, không phải tham vọng lên trưởng phòng trưởng ban gì cả, mà tham vọng viết nhiều, tôi có thể làm bất cứ việc gì, làm tất cả các buổi phát thanh giới thiệu tác phẩm, những anh em ở đây tôi đã giới thiệu cả rồi. Tôi còn trực tiếp nói như phát thanh viên, tất cả những cái đó để rèn cho mình bản lĩnh. Tôi viết tính đến nay cũng ngót ngét 100 nhạc phim, dưới cái tủ thờ các cụ nhà tôi chật ních tổng phổ nhạc phim. Có phim tôi viết từ những năm 60. Lúc ấy anh Ngô Huỳnh làm biên tập viên ở Xưởng phim Hoạt hình đặt viết. Phim đầu tiên vất vả lắm, 15 ngày mới xong mấy phút nhạc phim. Vừa viết vừa học vừa tra xem clarinette, cor thế nào cho người ta thổi được. Tôi cũng đóng góp nhiều cho Xưởng phim Quân đội.

Cuộc đời làm âm nhạc của tôi nói chung nghèo không như các em trẻ bây giờ. Chỉ có hai món tiền mà tôi nhớ nhất. Năm 55 khi tôi còn ở quân đội bị sốt xuất huyết, sốt rét ác tính, phải nhờ một anh giữ đầu chúc xuống, nhờ một anh cầm chân lên giời. Vợ ở nhà lạch cạch máy khâu. Thấy Nhà Xuất bản Quy Sơn, Nhà Xuất bản Trung ương ảnh viện ở Cửa Nam in nhạc, mình cố trốn ra đấy thử kiếm ít tiền. Mình mặc bộ quân áo hai túi (hai túi là lính, bốn túi mới là sĩ quan) không có khí thế gì cả, vào lúc chủ Nhà Trung ương ảnh viện là Phạm Bốn đang tiếp khách. Đứng chờ mãi hắn mới ra hỏi đồng chí bộ đội muốn gì? Tôi hỏi ở đây ông có in nhạc không? Hắn bảo vâng. Nó không tin mình là nhạc sĩ. Hắn cầm mấy bản nhạc xong bảo: ông là Hồ Bắc à? Tôi cho người đi tìm ông bao lâu nay mà không thấy, ông để đấy tôi in cho ông. Tôi đưa sáu bài in cả sáu. Hắn bảo tạm ứng cho 1/3, in xong lấy nốt. Tôi phải mang ba lô đựng tiền, chẳng nhớ bao nhiêu nghìn, cầm tiền run quá, hay là tiền giả, từ nhỏ đến giờ chưa bao giờ thấy món tiền như thế. Tôi cầm tiền vào mua xe đạp ngay Hàng Bông, mua cho vợ cái va ly đựng quần áo, mấy cuộn len để đan cho thằng con lớn. Lúc ấy phụ cấp bộ đội mỗi tháng có bốn nghìn rưởi, thì nghìn mua được bánh xà phòng loại xoàng, hộp thuốc đánh răng, khăn mặt con con. Sau này tôi còn gặp Phạm Bốn nhiều lần lúc anh ấy làm ở Đoàn kịch Hải Phòng, nghe đâu giờ anh ta đi Mỹ rồi. Đấy là kỷ niệm thú vị cả đời không bao giờ quên.

Kỷ niệm thứ hai là một lần lên Đà lạt. Cậu em tôi là Chu Xuân Diên giáo sư văn học một trường đại học ở Đà Lạt mời tôi lên chơi. Hàng ngày cậu ấy đi dạy, mình ở ký túc xá trường. Hôm sau nghe tin Hồ Bắc đến, anh Hiệu trưởng tới thăm, kéo ra hiệu ăn và bảo bọn em đang dựng hợp xướng Ca ngợi Tổ quốc, lĩnh xướng là Nguyễn An Ninh  - tay này sau làm Vụ trưởng Vụ Kiểm thính của Bộ giáo dục.

Tôi giữ nhiều tài liệu. Đây là những bài hát từ năm 1947: Ngày vui chóng tàn, Anh sẽ về (Ảnh viện Trung ương in), Mùa cưới (lấy tên là Nguyễn Hồ, vì - người yêu cũ họ Nguyễn, tôi họ Hồ, vợ không biết). Ở nhà tôi có đủ tất cả chữ ký và ảnh chụp từ anh Khoát, anh Nhuận đến tất cả các anh có mặt ở đây. Anh Bùi Công Kỳ chết rồi, anh ấy ghi cho tôi là: “Mến tặng H (tức là Hiền vợ tôi) bố thằng Việt (lý lịch đầy đủ) Ba Đình nắng! Để nhớ những ngày cùng cố gắng trên đường hành quân. Để nhớ những ngày trong bộ đội”. Tôi với anh Kỳ hay song ca với nhau, tôi thường hát bè hai, vừa hát vừa bịa chứ có viết ra thành bản để nhớ đâu.

Sau khi nghe tác phẩm, xin các anh cứ phát biểu thẳng thắn nhạc của Hồ Bắc thế nào.

Chia sẻ:
facebook share
instagram share instagram share

Xem nhiều