MỘT CHÚT SUY TƯ CÙNG TÁC GIẢ RƠI VÀO GIẤC NGỦ

07:00 AM, Thứ sáu, 25/07/2025
111

Tác giả: Đào Thị Hồng Lê

 

 

Hẹn gặp anh, nghệ sĩ Nguyễn Xuân Sơn (Sơn X) vào một buổi chiều tháng 4 nơi quán trà trong một con ngõ nhỏ trên phố Thái Thịnh. Quán trà với một không gian bài trí nhẹ nhàng mang phong cách hoài cổ, trang nhã, thanh tịnh trên nền nhạc cổ cầm du dương khiến cho con người khi bước vào nơi đây cũng trở nên trầm mặc, suy tư một cách rất tự nhiên đến lạ. Chúng tôi ngồi bên bàn trà, ngắm nhìn cô chủ quán pha chế với cả sự tận tâm, tinh tế trong cách pha và cách rót, rất bài bản theo lối của những người thưởng trà chuyên nghiệp. Thưởng thức trà cùng một chút đồ ăn nhẹ, một chút câu chuyện hỏi thăm sức khoẻ và rồi câu chuyện về tác phẩm của anh Rơi vào giấc ngủ được anh nói đến như nói về một đứa con cưng, đứa con tinh thần mà theo như anh kể thì khi được trình diễn ở bất cứ nơi đâu, trong nước hay nước ngoài đều được công chúng đón nhận một cách nồng nhiệt. Rồi những băn khoăn suy nghĩ của anh về quan điểm, về thực hành và thưởng thức nghệ thuật truyền thống trong bối cảnh xã hội bây giờ. 

Anh đã từng gắn bó với nghệ thuật truyền thống nhiều năm, có nền tảng vững chắc về nghệ thuật truyền thống và văn hóa bản địa Việt Nam. Khi rẽ sang con đường âm nhạc thể nghiệm, nhạc đương đại, có lẽ vì vẫn dành rất nhiều tình yêu thương cho nghệ thuật truyền thống nên hầu hết trong các tác phẩm của anh đều mang đặc trưng rõ nét về chất liệu và màu sắc của các loại hình nghệ thuật truyền thống. Từ nội dung, giai điệu âm nhạc cho đến hình thức thể hiện đều mang âm hưởng của nghệ thuật Tuồng, Chèo, Đờn ca tài tử, Ca trù,... Đặc biệt là chất liệu của nghệ thuật Tuồng được anh khéo léo đưa vào tác phẩm như một nguồn cảm hứng, thể hiện ngôn ngữ truyền thống sâu sắc nhưng lại mang hơi thở của đương đại.

Trong tác phẩm Rơi vào giấc ngủ, cảm nhận của mỗi người có lẽ sẽ đi theo mỗi chiều hướng khác nhau bởi theo như tôi biết khi anh nói xem tác phẩm của anh sẽ thấy đó là một sản phẩm mở, anh không định hướng người xem theo một khuân mẫu cụ thể mà sẽ đưa người xem đi theo cách hiểu, đi theo cảm nhận riêng của họ. Nội dung của tác phẩm cũng tuỳ thuộc vào cảm nhận của người xem, đôi khi xem xem lần hai cảm nhận lại thay đổi. Không biết đó có phải là chuyện hết sức bình thường hay không bởi khi tôi đưa ra cảm nhận lần đầu nhưng rồi chính tôi lại phủ nhận bản thân để nghĩ theo hướng khác khi xem lại, bởi khi đó tôi đã có chút thông tin về nội dung tác phẩm. Tuy vậy, đến khi xem lại lần thứ ba, nghe kỹ âm thanh và biểu hiện của người nghệ sĩ thể hiện tôi lại cảm nhận sâu hơn, cố gắng đặt mình vào vị trí của một người khán giả đúng nghĩa chứ không phải xem với tâm tưởng phân tích rõ ngọn ngành của tác phẩm thì hầu như mọi cảm nhận của những lần trước lại không còn vương vấn ở lần xem này nữa. Tôi hỏi bạn bè, đồng nghiệp cùng xem và họ cũng thấy vậy.

Tôi đã đưa ra những thắc mắc để được nghe anh chia sẻ:

Tác phẩm thu hút người thưởng thức theo một cách riêng, mỗi lần xem là một cảm nhận khác ư? Đó có phải là ý đồ sáng tác của anh không? Việc mỗi người xem một cảm nhận, một suy nghĩ riêng là điều mà anh mong muốn làm cho tác phẩm đó trở nên khác biệt, hấp dẫn người xem hơn hay sao? 

Khi xem Fall into sleep bạn sẽ thấy nó không có nội dung gì nhiều đâu. Câu chuyện rất ngắn gọn, một người đàn ông rơi vào giấc ngủ và anh ta mơ thấy bản thân mình của 500 năm về trước. Trong vở này anh đặt vấn đề về tốc độ, tốc độ mỗi thời nó một nhanh lên. Cái ông ngồi đấy chính là anh đang ngủ, cái ông đang diễn chính là hình ảnh 500 năm trước. Anh ta mơ thấy hình ảnh quá khứ của 500 năm về trước. Hình ảnh của một con người thời xa xưa, từ cử chỉ, hành động, biểu cảm đều chậm rãi. Vậy nên câu chuyện ở trong tác phẩm này nó còn là câu chuyện về tốc độ.

Nghe anh nói, hình dung trong đầu thời điểm 500 năm trước như thước phim tư liệu đang quay chậm. Những hình ảnh của 500 năm trước là cái gì đó rất xa vời. Con người, khung cảnh thời kỳ đó chậm rãi, màu sắc trầm ấm, nhẹ nhàng khác xa khung cảnh náo nhiệt, tươi mới của xã hội bây giờ. Với tôi những hình ảnh đó chỉ có trên phim ảnh, trong các tác phẩm nghệ thuật và đó có đúng với khung cảnh thời bấy giờ hay không thì với bản thân tôi vẫn là dấu chấm hỏi.

 Câu chuyện về tốc độ, thực ra nếu tốc độ 500 năm về trước chắc nó chậm lắm, mà ở đây mình còn sân khấu hóa nó, lại còn cường điệu câu chuyện đó lên khi chúng ta thấy các động tác họ múa rất chậm. Nếu mình phân tích về múa, nếu như các bạn học hay các bạn xem Tuồng thì thấy múa Tuồng nó không có nghĩa, múa Tuồng nó chỉ có nghĩa khi người ta cấp lời cho nó. Nếu không cấp lời thì nó chỉ là những động tác rời rạc. Khi cấp lời mà khán giả không có hiểu lời thì động tác cũng trở thành vô nghĩa luôn.

Ví dụ như động tác xoang chỉ, khoát,… chỉ là tên của động tác mà thôi. Tất cả tên các động tác có trong bộ công cụ về động tác trong Tuồng giống như các nốt nhạc đồ, rê, mi chỉ có nghĩa khi bạn biết cách sắp xếp. Múa là ngôn ngữ của cơ thể, không phải ngôn ngữ của lời nói, của âm thanh. Khi người diễn viên Tuồng múa mà phải cắt lời đi, mà cắt lời đi thì họ không múa được, vậy đấy không gọi là múa mà là động tác minh họa cho lời.

Khi lên ý tưởng cho tác phẩm đấy anh mới nghĩ: nếu giờ cắt bỏ toàn bộ phần lời và đưa vào một câu chuyện trừu tượng để khán giả mới đặt câu hỏi thì vở đó mới tiếp tục sống. Không chỉ có ta đặt câu hỏi mà Tây cũng đặt câu hỏi và họ đã nhìn thấy cái gì? Họ nhìn thấy vũ đạo và nghe thấy âm thanh. Khi anh đưa hình ảnh con búp bê cũng vậy, nó chỉ là một ẩn dụ về câu chuyện một người đàn ông truyền thống như thế mà lại đẻ ra một cái thứ chẳng liên quan gì, mắt xanh tóc vàng, lai căng, nhưng vì nó là con nên dù khác biệt thế nào thì ông ta cũng vẫn ôm ấp nó.

Về âm nhạc, phần xử lý âm nhạc trong tác phẩm khi mọi người nghe sẽ thấy, rất nhiều những thứ âm thanh của Ca trù, Chèo, Tài tử, âm nhạc điện tử,… rồi cả tiếng tụng kinh gõ mõ. Bởi vậy, quay lại với câu chuyện là nó có phải Tuồng hay không khi nhân vật lại mang hình hài của Tuồng? Anh có một tư liệu về một vở từ năm 59, tư liệu quay năm 63. Trong đấy toàn các cụ như bà cả Tam, bà Lệ Hiền, bà Diệu Hương,… ăn mặc như Tuồng, dàn nhạc Tuồng, đánh như Tuồng, có kèn sona, trống ban y như Tuồng, nhưng có lúc lại đệm như chèo rồi hát chèo, lúc lại hát Bình Trị Thiên. Các cụ có quan tâm đến cái nào là Tuồng, cái nào là Chèo đâu, có nghĩa là làm sao vở diễn hấp dẫn được người xem.

Trong tác phẩm này anh cũng sử dụng cái tính chất đấy, không cần quan tâm đến việc nó là cái gì nên anh chỉ cần tập trung làm sao để hấp dẫn được người xem là thành công của tác phẩm rồi. Khán giả luôn luôn phải suy nghĩ, đặt câu hỏi chứ không phải hiểu một cách thông thường. Ví dụ mình nghe nhạc của nước ngoài, tiếng Anh thì giờ cũng không xa lạ và các bạn hiểu nhưng tiếng Trung Quốc, Ấn độ,… thì làm sao các bạn hiểu được nghĩa là gì. Vậy cho nên mình không cần hiểu mà chỉ cần cảm theo suy nghĩ của riêng mình thôi. Trong âm nhạc truyền thống có một cái rất mạnh mẽ đó chính là tính ngẫu hứng và trong múa cũng như vậy. Họ có thể diễn cương với nhau hàng mấy chục phút mà không có kịch bản.

 Ngay từ cái tên của tác phẩm, ấn tượng đầu tiền với người xem là chữ Rơi, Ngã chứ không phải là Đi hay Bước vào giấy ngủ mà là Rơi vào giấc ngủ. Nếu như bình thường chắc không mấy ai để ý, phân định từng câu từng chữ nhan đề đâu nhưng bởi cái âm thanh ban đầu là tiếng đàn dây vuốt nhẹ từ trên xuống, cảm giác như có một cái gì đó đang rơi nhẹ nhàng làm cho người nghe phải chú ý ngay vào cái tên của tác phẩm. Đó là ngẫu hứng của nghệ sĩ chơi đàn hay giai điệu đó chính là thể hiện tiêu đề, ý tưởng của tác phẩm? Ngay sau đó là âm thanh của đàn đáy với giai điệu của Ca trù, tiếng mõ tụng kinh, tiếng tiêu, tiếng các nhạc cụ thả những âm thanh không theo làn điệu hay lối hòa thanh giai điệu nào. Rồi hình ảnh một người đàn ông ăn mặc như Tuồng, vẽ mặt như Tuồng dò dẫm bước ra diễn những động tác chậm rãi, gương mặt biểu cảm sự hoang mang, ngơ ngác, ngờ hoặc,… cả một sự pha trộn tưởng chừng hỗn loạn nhưng khi kết nối chúng lại với nhau và hình dung dựa trên nội dung của tác phẩm thì nó dẫn ta đến một bức tranh về thời điểm 500 năm trước, bức tranh một người đàn thời nay bỗng rơi vào không gian của thời kỳ 500 năm trước nó lạ lẫm, xa vời đến thế nào. Từ màu sắc của âm thanh dẫn ta đến màu sắc của hình ảnh, từ biểu cảm của nhân vật dẫn ta đến biểu cảm của nội tâm nhân vật”.

 Tùy theo cảm nhận, nhìn nhận của mỗi người khi xem tác phẩm này thôi anh cười nói: “Khi xây dựng tác phẩm này anh có sẵn một cái concept, đó là tốc độ và sự pha trộn giữa các loại hình âm nhạc truyền thống. Khi phân tích về thang âm điệu thức thì bài nào chả khác nhau nhưng quy lại nó cũng có bấy nhiêu nốt. Nếu như phân thích thang âm điệu thức thì giống như gam của phương Tây, khó có thể bóc tách được cái lõi. Anh không làm theo lối đó mà làm theo lối nghe thế nào cho đúng với ý mình. Trong tác phẩm này, nếu nghe không quen thì sẽ thấy lạ, nhưng anh đưa tác phẩm đi diễn nhiều nơi thì họ thấy thích chứ không có đặt vấn đề chi tiết về âm nhạc”. 

Để cho ra đời một tác phẩm người ta hay nói đến hai từ “p ủ”, đủ chín, đủ nhuần thì ý tưởng sẽ nảy sinh. Anh nghĩ sao về điều này? Có hình ảnh, sự kiện hay câu chuyện gì khiến anh nảy ra ý tưởng sáng tác tác phẩm này không? 

Anh luôn luôn suy nghĩ và đặt câu hỏi với âm nhạc truyền thống vì mình là người thực hành nghệ thuật truyền thống lâu năm. Anh thấy nghệ thuật truyền thống không phát triển. Sau nhiều năm làm việc với Ea Sola ở các nước thì toàn làm với nhạc truyền thống Việt Nam, diễn khắp nơi và được họ đón nhận. Có nghĩa là nhạc truyền thống của mình hoàn toàn có thể làm theo cách để nó đi vững vàng. Những vở bọn anh diễn ở nước ngoài vé toàn phải bán trước ba tháng và luôn full. Đoàn này không bao giờ diễn giao lưu văn hóa và những sân khấu của bọn anh diễn đều hầu như chưa có đoàn nào của Việt Nam vào hết, vì đó là sân khấu lớn nhất của quốc gia.  Chủ yếu là người nước ngoài xem thôi. Người Việt Nam xem hải ngoại, Thúy Nga Paris hay những chương trình giao lưu văn hóa. Chương trình bọn anh diễn bên đó thỉnh thoảng có những du học sinh đến xem. Những chương trình đấy bọn anh làm với diễn viên Việt Nam, âm nhạc Việt Nam và được người nước ngoài đón nhận.

Theo anh, thế hệ trẻ bây giờ có hứng thú với nghệ thuật truyền thống không? 

Thế hệ trẻ bây giờ xem các vở Tuồng, Chèo gần như không hiểu. Có lần anh dẫn một nhóm bạn trẻ hơn chục người đi xem vở Tống Trân Cúc Hoa của Nhà hát Chèo Việt Nam diễn. Sau buổi diễn anh có hỏi các bạn trẻ thấy thế nào, các bạn ý đều nói là khó hiểu “Cái bà trong vở đó thế nào ý nhỉ, như bọn em bây giờ thì bỏ quách đi rồi”. Tức là cái thẩm mỹ, cái giá trị đạo đức của các thời rất khác nhau, khác xa nhau. Nếu giờ chúng ta cứ áp cái quy chuẩn của một thời rất xa vào thời này và mong muốn thế hệ thời nay cảm thấy như thế thì rất khó.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp phủ vơi đầy

Hội Chèo làng Đặng đi qua ngõ

Mẹ bảo “Thôn Đoài hát tối nay”.

Anh hỏi các bạn ấy bài thơ đó có hay không? Các em có thấy mưa xuân đẹp không? Cá bạn hỏi lại “Như thế nào mà hay hả anh, mưa xuân kinh lắm. Thế Hội Chèo là cái gì hả anh?”.

Các bạn trẻ bây giờ không có cái đời sống đó mà mình cứ bảo hay, bảo đẹp trong khi các bạn ấy không thấy hay ở đâu? Đấy là anh nói câu chuyện người Việt với người Việt thôi đấy. Các giá trị của các thời kỳ, các thế hệ khác nhau nó đã khác nhau rồi nên mình không thể bảo họ cảm nhận, nhìn nhận theo lối cũ, nó không còn phù hợp.

Khi đưa nghệ thuật truyền thống vào âm nhạc thể nghiệm đương đại, anh nghĩ thế hệ trẻ tiếp nhận ra sao? 

Bao nhiêu năm nay hầu như trong tất cả các tác phẩm của anh đều làm với âm nhạc truyền thống, từ video, perfornamce… cho đến các vở diễn anh đều phải tính làm sao để đưa chất liệu truyền thống vào. Thứ nhất là anh thấy đưa âm nhạc truyền thống vào rất thú vị, thứ hai là anh muốn cho mọi người thấy rằng dùng chất liệu truyền thống hoàn toàn có thể làm được những cái rất hiện đại mà hiện đại, mới lạ thì lại dễ thu hút giới trẻ. Chỉ có suy nghĩ của chúng ta có thay đổi không thôi chứ nếu vẫn tư duy như thời các cụ thì giới trẻ sẽ khó tiếp nhận.

Khi mọi  người xem tác phẩm Fall into sleep, đầu tiên sẽ là những câu hỏi, khi xem cần phải suy nghĩ về nó, nó mang lại ấn tượng gì? Ấn tượng nó có thể là tệ hay là hay, là thích. Dù thích hay không thích thì nó phụ thuộc nhiều vào gu thẩm mỹ của người xem nhưng vẫn gợi cho người xem suy nghĩ về nó thì đó là thành công của người nghệ sĩ. Khi người ta xem một tác phẩm xong chẳng có gì để nói, chẳng đọng lại bất cứ điều gì thì đấy mới là điều đáng sợ.

Quả đúng như vậy, điều người nghệ sĩ, nhạc sĩ mong đợi là tác phẩm của mình đọng lại với người xem. Sự thật có rất nhiều tác phẩm trình diễn xong rồi “chết yểu”, lướt qua người xem phút chốc rồi trôi đi không gợn lại chút cảm xúc nào. Vậy đã bao giờ anh đưa tác phẩm này ra trình diễn rồi khảo sát xem khán giả cảm nhận tác phẩm của anh như thế nào chưa? 

Trong một bài trả lời phỏng vấn cách đây mấy năm anh có nói: “Hãy đến với nghệ thuật, với âm nhạc thể nghiệm bằng một cái đầu rỗng”. Có thể xã hội đang có nhiều định kiến, hiểu và đóng khung những cái giá trị trong đầu cho nên khó tiếp nhận những giá trị khác.

Anh vẫn diễn và vẫn có khá nhiều khán giả thưởng thức. Có nhiều những đơn đặt hàng anh dàn dựng, làm những chương trình biểu diễn cho du lịch hay cho các trung tâm văn hóa. Anh nghĩ rằng người ta phải yêu thích tác phẩm của mình, người ta phải thấy được ý nghĩa của nó thì mới mời mình hợp tác, đấy có lẽ là cách khảo sát tốt nhất rồi. 

Khi xem tác phẩm của anh, sự chú ý sẽ dồn vào hình ảnh người biểu diễn mà đôi khi bỏ qua, xem nhẹ phần âm nhạc. Vậy sự kết hợp giữa âm nhạc và biểu diễn được anh pha trộn như thế nào? Ở đây có sự phân định hay chỉ là cảm nhận của người xem mà thôi.

Với tác phẩm Fall into sleep các bạn sẽ thấy nó thực hành về sân khấu nhiều hơn âm nhạc mặc dù tác phẩm này được trình diễn trong một festival âm nhạc. Trong công việc của anh từ xưa đến giờ, phần thị giác chiếm khá nhiều, không chỉ đơn thuần là âm nhạc. Khi dựng tác phẩm, anh làm việc với các nghệ sĩ bằng cách nêu lên ý tưởng, câu chuyện của tác phẩm và anh cần sự cảm nhận của người nghệ sĩ thể hiện tác phẩm đó ngẫu hứng, họ kết nối lẫn nhau thông qua âm thanh với người nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu. Từ nhân vật biểu diễn họ tiếp nhận âm thanh để đưa ra những động tác, biểu cảm theo cảm nhận của họ, còn âm thanh khi vang lên như thế nào cho phù hợp với diễn viên, phù hợp với khung cảnh chứ không tập theo tổng phổ, bài bản viết sẵn.

Anh hỏi các nghệ sĩ có những kỹ thuật gì, bài bản gì? Chẳng hạn như anh muốn chỗ này mạnh mẽ, bạn có những kỹ thuật nào để biểu hiện sự mạnh mẽ, cách biểu hiện đó như thế nào. Mỗi người một cách, mỗi người có một biểu hiện riêng. Có người biểu hiện sự mạnh mẽ bằng âm sắc, ví dụ như trống trầu, họ vụt cái roi trầu nghe cũng rất mạnh mẽ. Hay chỗ này tôi cầm một cái cảm giác buồn, không phải buồn thảm mà nó là cái buồn bâng khuâng, man mát thôi. Mỗi người họ sẽ thể hiện nỗi buồn đó một kiểu và anh lựa chọn biểu hiện của cái buồn này hay cái buồn kia. Với diễn viên thì anh cần những động tác rất chậm, tưởng tượng như một bộ phim quay chậm của một thời kỳ rất xa xưa. Anh cứ đi ra như một diễn viên truyền thống, ra giữa sân khấu xưng danh nhưng ở đây diễn viên không nói mà phải biểu đạt xưng danh trong một sự mù mờ, không biết đi đâu, tìm cái gì. Cảm giác như đi trong một giấc mơ mất trọng lượng. Diễn viên cứ sử dụng tất cả các bộ công cụ như khai, kháng, xoang, xổ, chỉ, long hổ,… làm hết đi xong rồi anh sẽ sắp xếp những cái chuỗi động tác đó làm sao để thành câu chuyện.

Khi xem kỹ, các bạn sẽ thấy anh ta có động tác chỉ, khi mà không nói thì cái chỉ đấy không có ý nghĩa gì cả. Anh ta phải dùng vũ đạo, biểu đạt cơ thể của anh ta để nói lên ý nghĩa của cái chỉ đó giống như đang chỉ một cái gì đó rất quan trọng. Hay cái động tác té, bật nằm xuống cũng là động tác nhưng ở đây phải thể hiện, phải cấp nghĩa sao để thay cho lời nói. Tất cả những động tác đó đều nằm trong bộ công cụ của Tuồng. Nhấn vào cái vũ đạo, nhấn vào hình thể nhiều hơn để thể hiện ý nghĩa nội dung mình muốn nói đến.

Anh làm việc với diễn viên biểu diễn trước, dàn nhạc họ sẽ ngồi đó xem và cảm nhận những cái biểu hiện đó. Anh làm việc từng bước như thế và khi tổng hợp lại tất cả những biểu hiện của họ rồi thì sẽ tổ chức phân cảnh, múa đoạn này và nhạc chơi như thế này, cứ vừa ghép vừa sửa sao cho phù hợp nhất. Đoạn nào nhanh, đoạn nào chậm, đoạn nào cần sự tĩnh lặng… Các âm thanh cứ nối nhau theo chu kỳ, theo sự sắp xếp và lắng nghe lẫn nhau trong sự kết hợp các loại hình truyền thống với nhau.

Ngay từ những âm thanh đầu tiên của tác phẩm anh đã trao đổi với nhạc công là anh cần một cái màu sắc gì đó xa xăm. Anh muốn sử dụng cái tiếng trống như tiếng khắc khoải của thời gian. Tiếng trống đó phần nào gợi lại tiếng trống trầu trong Ca trù. Tác phẩm nói về thời gian và tốc độ nên xuyên suốt từ đầu đến cuối vở, tiếng trống như một cái nhịp đồng hồ.

Nhạc công nhìn những chuyển động của diễn viên xem phù hợp với âm thanh thế nào, nhẹ nhàng hay mạnh mẽ ra sao. Phần âm nhạc điện tử cũng vậy, anh làm trước một phần rồi xem cần phải vào chỗ nào, đoạn nào, có phù hợp hay không. Anh sắp xếp chứ không có chỉ định rằng nhạc công phải đánh cái gì, giai điệu gì và diễn viên phải làm gì, động tác này phải thế nào, diễn ra sao. Họ cứ làm, họ cứ diễn và anh sẽ xoáy vào nội dung của tác phẩm để họ dựa vào đó mà thể hiện.

Khán giả đến với nghệ thuật đương đại không phải vì họ hiểu tác phẩm, không phải họ đã định hình sẵn nội dung tác phẩm mà cái hấp dẫn họ là những câu hỏi, những suy nghĩ không mang tính định kiến, chạm tới cảm giác, tới những suy nghĩ và cảm nhận không đoán định sẵn. Người thực hành nghệ thuật đương đại cũng vậy, họ muốn biểu đạt một cách tự do, phóng khoáng, không phụ thuộc vào bất kỳ quy tắc nào, nơi mà họ được bộc lộ cá tính nghệ thuật theo một cách riêng biệt.

Sự kết hợp truyền thống với âm nhạc thể nghiệm đương đại của anh, theo một cách nào đó nó không còn tạo ra làn ranh, ranh giới giữa hai loại hình nghệ thuật tưởng chừng như khác biệt nữa. Ở Fall into sleep nói riêng hay các tác phẩm khác của anh nói chung, hầu hết tập trung vào sự cảm nhận của người thưởng thức. Có lẽ vì thế nên cái sự thăng hoa của người nghệ sĩ, nhạc sĩ trong anh được thể hiện khi công chúng đón nhận, tạo được ấn tượng và cảm xúc của người xem. Những cảm nhận riêng biệt, đa chiều của người xem, nghĩ rộng nghĩ sâu thì nó là sâu là rộng mà dù cho có nghĩ đơn giản, giản dị thì nó cũng là giản đơn, đó mới là cái hay mà nghệ thuật mang đến.

Những sáng tác của anh khi đưa nghệ thuật truyền thống trở thành chất liệu để tạo ra một ý nghĩa mới, nó được sử dụng tuỳ biến nhưng vẫn theo một thứ tự, một tổ chức nghiêm ngặt mang tính thể nghiệm. Đó cũng là một hình thức thể hiện mang tính cách riêng của anh, nó cũng được thể hiện rõ nét trong các sáng tác như Hạn hán và Cơn mưa, Hai nàng Nguyệt Cô, Cánh đồng âm nhạc, Khúc cầu nguyện… Anh đưa nghệ thuật truyền thống kết nối với giới trẻ bằng một phong cách mới, phong cách của âm nhạc thể nghiệm cũng là một nguồn cảm hứng đa chiều cho giới trẻ tiếp cận và phát huy di sản văn hóa dân tộc.

*

Với tôi trước đây, âm nhạc thể nghiệm khó tiếp cận, đôi khi còn là khó hiểu bởi sự kết hợp không mang tính quy luật hay nguyên tắc như những gì chúng tôi đã được học ở trường lớp và những gì chúng tôi đang làm. Thực sự cảm ơn những chia sẻ của anh, cảm ơn khoảng thời gian quý báu anh giành chia sẻ cho tôi, người đang tìm hiểu về âm nhạc thể nghiệm, một người xem và yêu thích tác phẩm của anh để rồi cố gắng tìm hiểu sâu hơn về tác phẩm đó. “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, cái khôn được bao nhiêu tôi không thể cân đo đong đếm nhưng đi một ngày đàng, mở rộng tầm nhìn, mở rộng cái tư duy cố hữu lâu nay cũng đã là một bước tiến trong con đường làm nghề sau này của tôi rồi.

Chia sẻ:
facebook share
instagram share instagram share

Xem nhiều