Tác giả: Lê Hải Đăng
Chỉ thị số 17/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 7/6 năm 2025, trong đó có đoạn ghi: “Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách tập trung phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo”…, “Có cơ chế để huy động các nhóm nhân lực có chuyên môn cao, nghệ nhân, nghệ sĩ, vận động viên chuyên nghiệp tham gia tổ chức các hoạt động giáo dục trong các nhà trường”.
Trước thông tin này đã xuất hiện nhiều ý kiến phản hồi trên không gian mạng. Qua đó cho thấy, Chỉ thị 17/CT-TTg nhận được sự quan tâm của xã hội, trong đó, không ít ý kiến bày tỏ băn khoăn, lo lắng về việc nghệ sĩ, vận động viên chưa qua đào tạo sư phạm, khó đáp ứng yêu cầu giảng dạy ở trường phổ thông, thậm chí có người cho rằng, “thầy cô giáo tốt nghiệp sư phạm dạy còn chẳng ăn ai, huống hồ nghệ sĩ, vận động viên”!
Trước hết, đây là một chủ trương mới nhằm thay đổi thực trạng cũ. Giả thiết cách làm cũ đã tốt mà huy động nguồn lực để tạo thay đổi thực sự gây lãng phí. Trên thực tế, các môn âm nhạc, hội họa, thể dục ở trường phổ thông đã tồn tại nhiều bất cập suốt thời gian dài. Bằng chứng là, học sinh học những môn này ở trường phổ thông đều không có khả năng thi tuyển trực tiếp vào khối trường chuyên nghiệp, ngoại trừ phải tham gia học thêm, luyện thi với thầy cô giáo là nhạc sĩ, họa sĩ, vận động viên…chuyên nghiệp.
Tháng 9 năm 2021, trong cuộc Hội thảo: “Xã hội hóa đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp trong xu thế hội nhập của Việt Nam” do Học việc Âm nhạc Quốc gia Việt Nam tổ chức online vì đại dịch Covid 19, với tham luận: “Áp dụng linh hoạt nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông” tôi đã đề xuất ý kiến kêu gọi sự hợp tác của nghệ sĩ chuyên nghiệp tham gia giảng dạy ở bậc phổ thông.
Như chúng ta biết, nghệ thuật, thể thao vốn là những môn thực hành, khác với môn kiến thức. Xét về bản chất, thực hành mới làm nên giá trị nội tại ở những môn học này. Trong các tiêu chí đo lường năng lực con người, ngoài chỉ số IQ còn có “khiếu thẩm mỹ” và “năng lực sử dụng bản thân một cách thành thạo”. Cả năng lực “thẩm mỹ” và “sử dụng bản thân một cách thành thạo” đều nằm trong môn nghệ thuật, song đã bị lãng quên. Tất nhiên, trong môn kiến thức đòi hỏi rèn luyện kỹ năng, ngược lại, trong môn nghệ thuật cũng chứa đựng kiến thức. Chúng ta không đặt kỹ năng và kiến thức đối lập nhau, nhưng, xét về bản chất, kiến thức khác thực hành. Một người có thể nắm rõ định luật Acsimet, nhưng muốn biết bơi phải xuống nước thực hành. Ngoài ra, có những môn học hướng tới hiểu biết, vận dụng kỹ năng tư duy, như toán chẳng hạn, nhưng một khi đã nắm rõ công thức hay phép tính, đơn giản như 1+ 1 = 2 thì không nhất thiết phải lặp đi lặp lại nhiều lần. Trong khi ở nghệ thuật, thể thao, một động tác hay thủ pháp kỹ thuật phải lặp đi lặp lại nhiều lần, ngay cả khi đã nắm chắc nguyên lý, qua đó giúp nâng cao năng lực, trình độ, biến kỹ năng thành kỹ xảo, kỹ thuật thành nghệ thuật. Thực tế cho thấy, có những kỹ thuật, bài tập hôm nay làm tốt, ngày mai lại dở hoặc ngược lại. Chính vì vậy, đào tạo nghệ thuật, thể thao cần nghệ sĩ, vận động viên chuyên nghiệp là những người đã trải qua thực tế, liên tục rèn luyện nhằm duy trì khả năng, biến niềm đam mê thành động lực phát triển nghề nghiệp.
Xuất phát từ sự nhập nhằng giữa kiến thức và thực hành, nên âm nhạc dạy ở trường phổ thông chủ yếu tập trung vào kiến thức, như dạy các em đọc nốt, kể câu chuyện âm nhạc, hát ca khúc. Ngay cả việc học hát cũng không đi vào kỹ thuật luyện thanh, cách sử dụng giọng người nhằm thể hiện âm nhạc, từ đó nâng cao khả năng thưởng thức, đánh giá, phê bình loại hình nhạc hát. Điều đáng nói là, ngoài nhạc hát, nhạc đàn, một hình thái âm nhạc thuần túy không hề được dạy ở trường phổ thông. Cũng bởi nhầm lẫn mà có sự nhập nhằng giữa âm và nhạc, giữa nhạc và nốt, tệ hơn là biến âm nhạc thành công cụ tuyên truyền, chứ không hướng tới mục tiêu thực hành, thể hiện, thưởng thức cái đẹp và sáng tạo nghệ thuật. Hệ quả ấy đã tác động trực tiếp vào đời sống văn hóa, xã hội, để lại trên chính sự sa sút thẩm mỹ đại chúng.
Nghệ thuật, thể thao vốn là những môn học, ngành nghề đặc thù, người học không chỉ tiếp thu kiến thức liên quan một cách hệ thống mà còn phải không ngừng rèn luyện, thực hành, lấy bản thân làm thí nghiệm. Trong các trường nghệ thuật chuyên nghiệp, thầy cô giáo thường theo dạy học trò suốt thời gian dài, thậm chí hàng chục năm. Trong khi thầy cô dạy kiến thức chỉ cần quan tâm đến nội dung cấp học mình phụ trách. Ngoài ra, thầy cô dạy nghệ thuật, thể thao còn phải nhìn thấy con đường xa xôi phía trước nhằm tránh những hành động có thể cản trở bước tiến của học trò trong tương lai. Người thầy ở lĩnh vực này đòi hỏi tinh thần học tập, rèn luyện không ngừng, trở thành tấm gương đối với học trò. Họ không chỉ truyền dạy kiến thức, kỹ năng, mà còn phải thổi vào tâm hồn học trò tình yêu, đam mê… học để thích, theo đuổi sự nghiệp lâu dài, chứ không dừng lại ở thi cử. Muốn làm được điều ấy bản thân người dạy phải làm gương, trên cơ sở lấy bản thân “làm thí nghiệm” mới có thể truyền lại cho người khác. Truyền kiến thức đã khó, truyền lửa, nhiệt huyết, tình yêu, đam mê… càng khó hơn.
Việc huy động nghệ sĩ, vận động viên tham gia dạy ở trường phổ thông còn nhiều việc phải làm, từ xây dựng quy chế tuyển giảng viên, phân ban các cấp học cho đến chuẩn hóa nội dung học. Học sinh nghệ thuật hay thể thao thường bộc lộ thiên hướng rất sớm. Với sự tham gia của nghệ sĩ, vận động viên, môi trường học đường giúp phát hiện, bồi dưỡng tài năng, đồng thời chuẩn bị cho các cấp cao hơn. Trên cơ sở nhận diện đặc trưng môn loại, cần tổ chức, phân ban hợp lý, sắp xếp thời gian cho các em tập luyện. Như trên đã nói, nghệ thuật là môn thực hành. Trong quá trình học tập, học sinh phải giành thời gian tập luyện. Bấy lâu nay, nhiều trường quốc tế đã mời thầy cô giáo, nghệ sĩ chuyên nghiệp giảng dạy môn nghệ thuật. Đối với việc triển khai, áp dụng cách làm này một cách đại trà ở trường phổ thông cần có sự chuẩn bị phù hợp. Ở nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới, họ sử dụng nguồn lực từ các trường chuyên nghiệp rồi tập huấn về phương pháp sư phạm. Xét từ thực tiễn, đào tạo nghệ sĩ, vận động viên tốn nhiều thời gian, công sức hơn ngành sư phạm. Vậy, đào tạo bổ sung trình độ sư phạm cho nghệ sĩ, vận động viên khả thi hơn đào tạo nghệ thuật, thể thao cho giảng viên sư phạm, như vậy vừa ít tốn kém, vừa hiệu quả.
Gần đây có câu slogan “lấy học trò làm trung tâm”. Nếu cơ sở giáo dục thiếu thầy cô giáo giỏi, “trung tâm” ấy sớm muộn sẽ trở nên hoang phế, đổ nát. Đổi mới giáo dục không chỉ nằm ở cơ sở trường lớp, sách giáo khoa, điều kiện vật chất… mà quan trọng là yếu tố con người. Chất lượng nguồn nhân lực tham gia đào tạo chính là trung tâm của cơ sở giáo dục, đồng thời khởi đầu cho mọi sự thay đổi.