Tác giả: Lê Hải Đăng

Giao hưởng là “đứa con” sinh sau đẻ muộn trong nền âm nhạc Việt Nam. Người sáng tác giao hưởng vốn đã ít, người nghiên cứu càng ít hơn. Những nội dung đề cập tới lĩnh vực này đa số tập trung trong các bản luận văn, luận án lấy tác phẩm âm nhạc giao hưởng làm đề tài nghiên cứu, cuốn: “Thủ pháp hòa âm trong tác phẩm giao hưởng Việt Nam sáng tác sau năm 1975” của tiến sĩ Vũ Tú Cầu cũng không phải ngoại lệ.
Nói như Romain Rolland, âm nhạc dù là gì đi chăng nữa vẫn cần đến mũi tên ngôn ngữ để nhắm thẳng vào trái tim người nghe. Đây là một mắt xích quan trọng trong chuỗi liên kết sáng tác - biểu diễn và thưởng thức nghệ thuật.
Giữa thế kỷ XX đầy biến động, nhạc trưởng nổi tiếng người Mỹ Leonard Bernstein từng đem âm nhạc giao hưởng đến với trẻ em. Ông giới thiệu, khai sáng, biểu diễn thị phạm nhạc giao hưởng cho học sinh phổ thông. Ở Venezuela, dự án El Sisterma do nhạc trưởng Jose Antonio Abreu sáng lập năm 1975 hướng tới đối tượng là thanh thiếu niên nghèo, thông qua chương trình giáo dục âm nhạc mà trọng tâm nằm ở việc tham gia thực hành, biểu diễn dàn nhạc. Nói cách khác, đây là một cách phổ biến, “xã hội hóa” âm nhạc giao hưởng. Ở Đài Loan, nhạc giao hưởng được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông. Còn Hàn Quốc tham vọng thành lập dàn nhạc giao hưởng ở khu dân cư…
Nói như Trang Tử, mọi sự thay đổi diễn ra trong im lặng (Tiền di mặc hóa). Khái niệm này có phần đúng với tác phẩm giao hưởng ở Việt Nam. Đọc sách: “Thủ pháp hòa âm trong tác phẩm giao hưởng sáng tác sau năm 1975” của tiến sĩ Vũ Tú Cầu có thể phát hiện những bước chân thầm lặng của người đi trước, kẻ đi sau, miệt mài trên hành trình sáng tạo. Khi phần mềm chép nhạc, phối khí ra đời, tác phẩm giao hưởng có thêm khả năng thoát khỏi sự câm lặng của nốt nhạc để phát lên thành tiếng (file âm thanh). Ngược về quá khứ, rất nhiều nhà soạn nhạc không kịp chiêm ngưỡng hình hài đứa con tinh thần của mình bằng âm thanh. Qua đó thấy rằng, âm nhạc giao hưởng là thứ xa xỉ, xa rời đời sống văn hóa.
Ở Việt Nam, nhạc giao hưởng không xây dựng trên nền tảng văn hóa truyền thống, không thuận theo thói quen thưởng thức đại chúng và không hứa hẹn cải thiện tình hình kinh tế. Song, nếu thiếu sự đầu tư cần thiết, chúng ta không chỉ tụt hậu mà còn bỏ lỡ cơ hội phát triển, chưa kể vai trò hậu thuẫn của thiết chế văn hóa trong việc cung cấp điều kiện vật chất nhằm hiện thực hóa nhu cầu tinh thần của người làm và thưởng thức âm nhạc.
“Thủ pháp hòa âm trong tác phẩm giao hưởng Việt Nam sáng tác sau năm 1975” của tiến sĩ Vũ Tú Cầu do Nhà xuất bản Quân đội xuất bản năm 2025 gồm 184 trang, chia thành 4 chương.
Chương 1: Giới thiệu một số khái niệm về thuật ngữ, tình hình nghiên cứu hòa âm trong tác phẩm giao hưởng Việt Nam.
Chương 2: Khái quát về các tác phẩm giao hưởng Việt Nam sáng tác sau năm 1975.
Chương 3: Vận dụng thủ pháp hòa âm phương Tây
Chương 4: Những tìm tòi, sáng tạo nhằm “Việt hóa” các thủ pháp hòa âm.
Ngoài ra sách còn có Lời tác giả, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục.
Chương 1 cung cấp những khái niệm liên quan đến hòa âm, thang âm, điệu thức, tình hình nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam.
Chương 2 giới thiệu quá trình du nhập, hình thành phát triển thể loại giao hưởng ở Việt Nam, đặc biệt là các sáng tác sau 1975, giai đoạn chuyển mình của đất nước. Chủ đề, tư tưởng trong tác phẩm giao hưởng, mối quan tâm của các tác giả, đề tài, thể loại...
Chương 3 đề cập tới phương diện vận dụng thủ pháp hòa âm phương Tây, từ cổ điển đến hiện đại, từ hòa thanh công năng đến phi công năng.
Chương 4 tập trung giải quyết vấn đề cốt lõi của cuốn sách, từ vận dụng các thủ pháp hòa âm phương Tây trong tác phẩm giao hưởng Việt Nam cho đến Việt hóa chúng nhằm phù hợp đặc trưng ngôn ngữ âm nhạc của mình.
Âm nhạc là loại hình nghệ thuật sắp xếp âm thanh một cách hài hòa. Khi tổ chức càng đồ sộ, sự kết hợp của các âm thanh càng phải chặt chẽ, vận động hợp lý nhằm tạo nên sự hài hòa, hiệu quả, đặc biệt thuộc tính hài hòa trong âm nhạc không đến từ sự tương đồng mà xuất phát bởi sự “bất đồng”, hiểu là sự khác biệt giữa các âm thanh, như cao độ, âm sắc… và sự kết hợp của những con người có chức năng khác nhau. Tiếp cận giao hưởng thông qua thủ pháp hòa âm giúp nêu bật yếu tố này trong chỉnh thể của sự hài hòa.
Trên hành trình sáng tạo, mỗi tác giả, tác phẩm, từng nền văn hóa đều có cách đi riêng để hội nhập thế giới. Còn rất nhiều việc phải làm, con đường phải đi, trong đó có những công việc thầm lặng của người nghiên cứu. Nhạc giao hưởng giống như một xa lộ, nhưng ít người đi. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có vai trò hậu thuẫn của văn hóa. Có những thể loại người nghe đi từ mộ đến tri, ngược lại, nhạc giao hưởng có lẽ phải đi từ tri đến mộ, từ hiểu biết đến yêu thích. Nghiên cứu nhạc giao hưởng chính là một hành trình như vậy trong văn hóa. Thông qua đó tiến hành cuộc đối thoại giữa người sáng tạo và thưởng thức thông qua vai trò trung gian của người nghiên cứu.
Tiếp biến văn hóa vốn là hiện tượng phổ biến trong văn hóa Việt Nam, đồng thời là sở trường của người Việt Nam, từ quá khứ với nhiều hiện tượng văn hóa đã trở thành truyền thống đến hiện tại với những dạng thức văn hóa mới, trong đó có âm nhạc giao hưởng. Trong quá trình tiếp thu, thay đổi, giao hưởng mang bản sắc âm nhạc Việt Nam đã ra đời, góp phần tạo nên bức tranh đa sắc trong tổng thể nền âm nhạc Việt Nam.