Tác giả: Lê Hải Đăng
Trong một hội thảo về giáo dục âm nhạc từng có giảng viên lên tiếng: “Thời đại này mà còn có người dạy truyền khẩu truyền ngón”! Tôi nghe câu ấy đi từ ngỡ ngàng đến sửng sốt.
Trước hết, cần minh định thế nào là truyền khẩu truyền ngón, một phương pháp truyền thụ rất phổ biến, nhưng có người lại dị ứng. Âm nhạc cũng giống như ngôn ngữ nói chung, người dạy và người học gặp gỡ nhau thông qua lời nói, cử chỉ, hành động… Truyền khẩu là việc sử dụng miệng để truyền đạt, thị phạm. Truyền ngón hướng tới mục tiêu thực hành bằng động tác. Trong âm nhạc dân gian, truyền thống, trước khi diễn tấu bằng nhạc cụ, người học thường diễn xướng bằng miệng, sau đó mới dùng nhạc cụ mô phỏng lại giọng hát của mình. Phương pháp này rất hữu dụng. Nó giúp cho sự chuyển hóa từ người dạy sang người học một cách thuận lợi thông qua vai trò trung gian của cái miệng (khẩu).
Như trên đã khẳng định, âm nhạc cũng giống như ngôn ngữ. Trước khi có chữ viết, người ta đã dùng miệng để phát thanh. Ở tự hình chữ Hán, chữ “ngôn” có bộ khẩu, hiểu là sự biểu thị ngôn ngữ bằng lời nói. Văn tự là cách biểu thị ngôn từ bằng ký hiệu. Trên thế giới còn nhiều tộc người có tiếng nói, nhưng không có chữ viết. Quan trọng là, tuy không có chữ viết, nhưng người ta vẫn duy trì được tiếng nói. Cách lưu truyền này chủ yếu bằng phương pháp truyền khẩu, thông qua môi trường văn hóa nhằm bảo lưu tiếng nói.
Trên thực tế, chữ viết - văn tự - văn bản hay bài bản… ra đời khá muộn, đặc biệt không phải căn cứ duy nhất bảo lưu truyền thống. Trong lĩnh vực âm nhạc, chữ nhạc, nốt nhạc, nhạc số ra đời muộn hơn nhiều so với nghệ thuật âm nhạc. Kể cả khi những công cụ này xuất hiện cũng không phản ánh được sự phong phú của đời sống âm nhạc. Dừng lại ở phương pháp truyền khẩu truyền ngón cho thấy, nếu sử dụng miệng hát (truyền khẩu), sau đó dùng tiếng đàn mô phỏng (truyền ngón), quá trình tiếp thu bài học dễ dàng hơn so với việc diễn tấu trực tiếp từ bài bản. Ngoại trừ trường hợp người học đã thành thục kỹ năng thị tấu cũng như thực hành âm nhạc trên nhạc khí. Điều đáng lưu ý, truyền khẩu truyền ngón là một trong nhiều phương pháp truyền thụ phổ biến trong âm nhạc, chứ không phải chủ trương của cá nhân nào. Cách truyền thụ này thực sự hữu ích đối với những loại hình nghệ thuật mà kinh nghiệm đóng vai trò quan trọng, ẩn chứa giá trị vô hình có nguy cơ mai một, thất truyền.
Xét âm nhạc như một ngôn ngữ đặc thù trong nhiều nền văn hóa, “mật mã” của nó đã được cài cắm nhiều lớp bảo vệ khá phức tạp. Hơn 15 năm trước, nghệ sĩ tỳ bà Vương Thế Vinh, Đài Loan sang Việt Nam học nhạc Tài tử. Với tài năng xuất chúng như ông, việc học nhạc Tài tử qua bài bản, file âm thanh, hình ảnh... hoàn toàn khả thỉ. Nhưng, nghệ sĩ Vương Thế Vinh không quản đường xa sang tận Việt Nam học tập. Khi hỏi về điều này, ông trả lời: “tôi qua đây thỉnh kinh”, một câu nói đầy hàm súc, đồng thời rất đáng suy ngẫm.
Không hiếm người ở ta tự hào vì được đào tạo trường lớp, bài bản…! Vậy, trường lớp, bài bản là gì?
Trường là cơ sở đào tạo tập trung, trong đó có thể phân nhỏ thành lớp. Trong quá trình đào tạo, người ta có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau, như giáo trình, giáo án, sách giáo khoa, băng đĩa, file hình ảnh, âm thanh, bản nhạc… Đối với người học âm nhạc, nhất là nhạc cổ điển phương Tây, tác phẩm âm nhạc được thể hiện bằng hình thức văn bản, có khi kèm theo chỉ dẫn ngón tay, cường độ, tính chất, phân tích chủ đề... Hình thức văn bản này gọi chung là bản nhạc hay bài bản âm nhạc. Như vậy, bài bản chỉ là một hình thức định dạng tác phẩm nổi lên thành phổ biến trong nghệ thuật âm nhạc. Cách thức này giúp người dạy và người học gặp gỡ nhau, qua đó thúc đẩy quá trình truyền thụ diễn ra nhanh chóng. Trên thế giới vẫn cộng tồn và không ngừng bổ sung nhiều cách thức định dạng tác phẩm âm nhạc (bài bản), cũng như tích hợp mô hình đào tạo (đan xen cũ và mới). Giáo dục hiện đại đã mở rộng quy mô, phương thức, mô hình đào tạo một cách đa dạng. Không có mô hình nào thể hiện tính ưu việt tuyệt đối, cũng không hề có hiện tượng nhất thành bất biến. Mô hình đào tạo được thiết kế chủ yếu dựa trên đặc điểm loại hình âm nhạc, tính khả thi của nó trong từng giai đoạn nhằm hiện thực hóa các mục tiêu, từ bảo tồn, lưu truyền di sản cho đến phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhân tài… Vấn đề cốt lõi là cách thức nào phù hợp với từng loại hình âm nhạc, chiến lược đào tạo thì được lựa chọn, chứ không phải thời đại này phải từ chối phương pháp của thời đại nào.
Nói chung, đào tạo âm nhạc với quy mô đài trà hay chuyên sâu, bài bản hay truyền khẩu truyền ngón đều chỉ là phương pháp, công cụ. Nhìn lại lịch sử âm nhạc phương Tây cho thấy nhiều tác giả thành công trên những nẻo đường khác nhau, không ít trường hợp không hề đi qua trường lớp, như J.S Bach, V.A Mozart, L.V. Betthoven… Như chúng ta biết, J.S Bach thành tài chủ yếu nhờ tự học; V. A Mozart học từ người cha của mình; còn Betthoven viếng thăm, học hỏi các thầy nổi tiếng ở thành Viên. Qua đó cho thấy, mô hình mà các bậc thầy này tiếp thu là giáo dục tư gia. Nếu theo quan niệm của một số người, họ đã không được đào tạo “trường lớp”, kể cả “bài bản”! Vì, ngành in ở châu Âu phát triển khá muộn. Tới đầu thế kỷ 19, bản nhạc mới dần phổ cập. Nhờ vậy mà nhà soạn nhạc L.V Betthoven có thêm thu nhập từ tác quyền, gián tiếp giúp ông không lệ thuộc hoàn toàn vào sự bảo trợ của giới quý tộc. Nói về trường lớp, có lẽ phải đến thời kỳ Lãng mạn (đầu thế kỷ 19) mới dần phổ cập, như F. Chopin tốt nghiệp Cao đẳng Âm nhạc Warsa. Đó là nói về bối cảnh văn hóa châu Âu. Ở châu Á, châu Mỹ La Tinh, tình hình này muộn hơn nữa. Như vậy, cả trường lớp và bài bản đều không phải vấn đề cốt lõi trong giáo dục âm nhạc.
Nhiều người xác tín rằng, bản nhạc là nơi trú ẩn của âm nhạc. Dựa vào bản nhạc, người ta có thể chuyển hóa tín hiệu văn bản sang âm thanh. Sự thật không phải vậy. Nếu không cẩn trọng, chúng ta chỉ tạo ra âm, chứ chưa chắc đã phát minh ra nhạc. Âm là một hiện tượng vật lý, nhạc mới là loại hình nghệ thuật. Tình trạng “phiên dịch” âm nhạc đã không ngừng sản sinh qua sản phẩm na ná âm nhạc, chứ không hoàn toàn là âm nhạc. Như trên đã trình bày, âm nhạc giống như loại hình ngôn ngữ nói chung, có nghĩa là cũng xảy ra tình trạng biến đổi thanh âm, ngữ điệu, giọng nói… Đối với nhạc không lời, người ta không thể tra cứu nội hàm từ vựng, nên càng dễ phạm sai lầm. Chẳng phải ngẫu nhiên mà mỗi truyền thống đều tạo cho mình một vùng tự trị thâm nghiêm đủ cho người bên trong nhận ra nhau và người bên ngoài ngộ nhận về mình. Những người nắm giữ bí kíp chính là đối tượng “tầm sư học đạo”. Hồn thiêng của âm nhạc hay chuẩn thẩm mỹ trong từng nền văn hóa âm nhạc ký thác trên những “hình thái sống” ấy. Ở nước ta, người miền Bắc hát Ả đào, Chèo hay hơn miền khác; người miền Trung có ca Huế mà giới nghệ nhân kỹ tính nhận xét, người Quảng Trị hát ca Huế còn được, chứ đến Quảng Bình thì hơi hướng đã nhạt nhòa! Tương tự như vậy, Đờn ca Tài tử, Cải lương là đặc sản của người miền Nam. Nó thể hiện tiếng nói, tiếng lòng, văn hóa xứ sở nơi này. Nói như thế không có nghĩa chủ trương “cát cứ” trong nghệ thuật mà nhằm nhấn mạnh tính chất ngoài văn bản của loại hình âm nhạc. Và tính chất này nằm trong kinh nghiệm thẩm mỹ của những truyền nhân.
Vào thời kỳ phong kiến, người làm nghệ thuật đa số xuất thân từ phần tử thế tập, hiểu là cha truyền con nối hoặc sư phụ tuyển lựa, dẫn dắt đệ tử vào nghệ rồi hành nghề (truyền khẩu, truyền ngón, truyền nghề). Mô hình đào tạo này có ưu điểm là môi trường giáo dục không bị giới hạn không gian (vào trường, lớp) và thời gian (tiết học). Thầy và trò “ba cùng” trong quá trình học tập - truyền khẩu, truyền ngón, truyền nghề - nhờ đó, không gian, thời gian thực hành mở rộng, tùy thuộc vào thiên tư (năng khiếu) từng người mà hiệu quả phản ánh tương ứng.
Như vậy, học bài bản, trường lớp chưa chắc đã “bài bản” nếu bỏ qua các yếu tố cốt lõi của nghệ thuật âm nhạc, đặc biệt, thẩm mỹ không phơi bày trên bản nhạc. Nó ẩn tàng, núp bóng trong kinh nghiệm cá nhân, kết nhau thành trường phái, truyền thống, nền văn hóa… Nếu phó thác thẩm mỹ cho bản nhạc, “tính cách” của nghệ thuật âm thanh có nguy cơ biến mất. Bởi vậy, hãy thận trọng trước bản nhạc với tư cách một căn cứ truy lùng dấu vết âm nhạc.
Nói chung, một mặt chúng ta không phóng đại phương pháp truyền khẩu truyền ngón, mặt khác cũng không thể phủ nhận vai trò truyền thừa hiệu quả của nó. Trong thời đại tri thức, phương pháp khoa học phổ biến thậm chí đạt tới mức độ bình đẳng, trung tâm giáo dục vẫn nằm ở con người, chứ không phải trường lớp hay bài bản... Con người là trung tâm của mọi nền giáo dục. Khi đặt con người vào vị trí trung tâm, các phương pháp, mô hình đào tạo đều nhằm thúc đẩy sự tiến bộ, kiện toàn cá nhân hướng tới chân thiện mỹ.