LÝ LUẬN ÂM NHẠC: BÀI HỌC KẾT NỐI CỦA 80 NĂM NHÌN LẠI ĐỂ BƯỚC TIẾP

07:01 AM, Thứ sáu, 05/12/2025
61

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Châu

 

Trích sách Nhà phê bình âm nhạc, anh muốn gì? - Nguyễn Thị Minh Châu (Viện Âm nhạc, 2025)

 

Kết nối là một trong những chức năng quan trọng của âm nhạc, một loại hình nghệ thuật có sức lan tỏa “từ trái tim đến trái tim” bất chấp các kiểu rào cản: không gian địa lý, khoảng cách thời gian và khác biệt ngôn ngữ.

Kết nối cũng là tiềm năng chưa được tận dụng của nghiên cứu phê bình âm nhạc, một lĩnh vực thừa sức dựng cây cầu “xuyên không” từ truyền thống tới hiện đại, làm thứ keo kết dính hảo hạng các mắt xích nhạc sĩ - nghệ sĩ - công chúng - nhà quản lý, tạo chất xúc tác hữu hiệu cho mối tương quan giữa lý thuyết và thực hành, giữa lý luận và thực tiễn, giữa học thuật và nghệ thuật, giữa sáng tạo và thưởng thức.

Cùng với pho biên niên sử bằng âm thanh ngót một thế kỷ qua, những văn bản nghiên cứu bình luận âm nhạc đã ghi lại từng bước phát triển của nền nhạc mới nước nhà. Nhìn lại hôm qua để hiểu rõ hơn thực trạng hôm nay và hướng tới những gì cần có cho mai sau là một phần trách nhiệm của lý luận âm nhạc. Bên cạnh thành tựu đáng ghi nhận là những bài học đắt giá. Từ bài học của riêng lĩnh vực lý luận phê bình âm nhạc ở các chặng đường khác nhau, có thể nhận thấy nhiều điều đã làm trước đây và cần làm từ đây về sau trong vai trò kết nối của chuyên ngành này.

Nhìn lại quá khứ

Quá trình tạo dựng

Nhạc cổ Việt Nam mang đặc thù truyền khẩu truyền ngón, không lưu trữ bản nhạc ứng tác cũng như văn bản về lý thuyết âm nhạc. Sự xuất hiện tân nhạc (những năm 30 thế kỷ XX) đã gieo những hạt mầm đầu tiên vào mảnh đất lý luận âm nhạc. Theo tiến trình gần một thế kỷ hình thành và phát triển của nền nhạc mới Việt Nam, chuyên ngành lý luận đã từng bước định hình trong vai trò cầu nối đa chiều, đáng chú ý hơn cả là sự giao thoa giữa hai truyền thống Đông - Tây.

Lần du nhập đầu tiên có thể coi là giai đoạn chạm ngõ với lý thuyết âm nhạc cổ điển châu Âu (đầu thế kỷ XX). Tiếp cận một ngôn ngữ âm nhạc hoàn toàn mới lạ, người Việt chuyển từ thưởng thức sang công đoạn sáng tác “có văn bản, có tác giả”, chuyển từ phong trào “đặt lời ta cho điệu Tây” sang dò dẫm tự viết bài hát, tự tìm hiểu lý thuyết âm nhạc bảy cung (diatonique).

Phong trào cải cách âm nhạc làm báo chí dấy lên cuộc tranh luận giữa các quan điểm khác nhau: thủ cựu bảo vệ cái cũ phản đối cái mới và cực đoan phủ nhận cái cũ ủng hộ cái mới, hoặc trung dung chấp nhận cả hai song song tồn tại độc lập. Sự tiếp nhận ban đầu hoàn tự phát và đơn giản: sáng tác theo bản năng, bình luận theo cảm tính. Những “tân nhạc luận” sơ khai ấy cũng đã đóng vai trò đồng hành với sáng tác và góp phần đổi mới thị hiếu trong thưởng thức âm nhạc đương thời.

Ý tưởng kết hợp nhạc mới với chất liệu cổ truyền nhen nhóm và lan tỏa trong những thử nghiệm cá nhân, rồi được nâng dần thành phương châm sáng tác theo tinh thần “dân tộc - khoa học - đại chúng” của Đề cương Văn hóa năm 1943. Có lẽ các nhạc sĩ đã thấy việc đưa cổ vào mới có thể đáp ứng cả ba tiêu chí: màu sắc dân tộc nhờ vận dụng chất liệu nhạc cổ, yếu tố khoa học nhờ dựa trên nền tảng lý thuyết nhạc mới, hiệu quả đại chúng nhờ cả đôi: nhạc mới đã mau chóng lan rộng thành trào lưu thịnh hành, trong khi những làn điệu cổ truyền vẫn ngấm sâu trong người dân.

Khởi nguồn từ những bài ca yêu nước, ca khúc cách mạng trở thành dòng chủ lưu xuyên suốt hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Xuất hiện ngày càng nhiều hơn những giai điệu mang âm hưởng ngũ cung (pentatonique) với những nét luyến láy quen thuộc, những quãng và tiết tấu đặc trưng của dân ca. Sự tìm tòi có ý thức trong quá trình “bản địa hóa” thứ du nhập để biến cái mới lạ thành của mình là biểu hiện manh nha vai trò kết nối trong lĩnh vực lý thuyết thuộc chuyên ngành lý luận sau này.

Với tinh thần luôn đề cao tính dân tộc trong sáng tác, Ban Âm nhạc - tiền thân của Viện nghiên cứu âm nhạc - ngay khi thành lập (1950) tại chiến khu Việt Bắc, đã đặt nền móng cho lĩnh vực nghiên cứu thông qua việc tìm hiểu dân ca, truyền dạy các làn điệu cổ, giúp các nhạc sĩ thuận lợi hơn trong việc đưa chất liệu cổ vào nhạc mới. Có thể nói hoạt động lý luận lúc đó dù chưa định danh định hình cũng đã bắt đầu thể hiện vai trò kết nối về bản chất giữa hoạt động sáng tác và nghiên cứu, giữa kinh nghiệm dân gian và tư duy lý thuyết âm nhạc cổ điển.

Cuộc tiếp nhận lần hai diễn ra ở thời kỳ kiến quốc (những năm 50-60) với lĩnh vực nhạc thính phòng giao hưởng, mở màn bằng những thử nghiệm đầu tiên trong ngôn ngữ âm nhạc nhiều bè qua các hình thức âm nhạc quy mô lớn hơn ca khúc. Yêu cầu học thuật kéo theo tính chuyên nghiệp về mọi mặt. Nếu giai đoạn trước nhiều tác giả vừa thực hành âm nhạc, vừa đóng vai trò nhà lý luận nghiệp dư - tức “vừa đá bóng vừa thổi còi”, thì giai đoạn này chính thức ra mắt các nhà lý luận chuyên nghiệp. Sau khi được đào tạo bài bản ở Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa, một số nhà nghiên cứu đã củng cố chuyên ngành lý luận theo mô hình Xô Viết tại Trường Âm nhạc Việt Nam (tiền thân Học viện Quốc gia Âm nhạc) để đào tạo các thế hệ kế tiếp dựa trên cơ sở lý thuyết âm nhạc phương Tây. Chất lượng đào tạo lý luận chuyên nghiệp được nâng cao với sự có mặt của chuyên gia Nga trực tiếp giảng dạy từ hệ trung cấp đến đại học trong thời gian đáng kể (cuối thập niên 70 - đầu thập niên 80).

Lý luận chú trọng không những tính hệ thống về mặt học thuật, mà cả tính quy phạm về mặt tư tưởng. Một khi âm nhạc đồng nhất tập trung vào nội dung ngợi ca, cổ động, tuyên truyền, giáo dục lý tưởng cách mạng và tạm bỏ qua chức năng giải trí, thì lý luận cũng phải đồng nhất trong vai trò tuyên huấn theo đường lối chuyên chính vô sản, kịp thời phát hiện và phê phán để loại trừ yếu tố không phù hợp. Lý luận phê bình trở thành “cột mốc tư tưởng” neo giữ cho nhạc sĩ sáng tác không chệch hướng và nghệ sĩ truyền đạt đúng tinh thần.

Lý luận gắn kết không chỉ trong cộng đồng giới nhạc, mà còn mở rộng kết nối giới nhạc với công chúng qua các chương trình giới thiệu tác giả - tác phẩm trên các phương tiện truyền thông (báo chí, đài phát thanh truyền hình). Một sự liên kết chặt chẽ, có định hướng rõ ràng chỉ một mục tiêu duy nhất: âm nhạc cách mạng.

Khác với tính đồng nhất ở miền Bắc, đời sống ca nhạc miền Nam chịu ảnh hưởng tính thực dụng và tư tưởng tự do sáng tạo nghệ thuật Âu - Mỹ, âm nhạc cũng như bình luận âm nhạc mang yếu tố cá nhân nhiều hơn lý tưởng hóa, nghiêng về tính giải trí đại chúng nhiều hơn là lý luận học thuật. Hoàn toàn không có mối quan hệ nào giữa đời sống âm nhạc của hai thể chế chính trị khác nhau. Các nhà lý luận miền Bắc không chấp nhận bất kỳ mối liên kết nào với các dòng nhạc và những người làm nhạc không cùng hệ tư tưởng. Sự lưu thông chỉ bắt đầu sau khi đất nước thống nhất (1975) và những va chạm về quan điểm gây khá nhiều lúng túng cho các nhà quản lý âm nhạc. 

Cuộc tiếp nhận lần ba diễn ra với nhạc giải trí (vẫn được gọi bằng cụm từ quen thuộc là “nhạc nhẹ”) sau thời điểm Đổi mới (1986). Bối cảnh mở cửa làm đổi thay mạnh mẽ đời sống văn hóa nghệ thuật khiến giới nhạc khá ngỡ ngàng. Sau những bối rối ban đầu là nỗ lực điều chỉnh sao cho phù hợp với sinh hoạt âm nhạc không còn nhất quán và đương nhiên không dễ quản lý. Thay vì dựng rào chắn, lý luận chuyển dần sang thái độ cởi mở, tìm hiểu, lý giải hiện tượng để chấp thuận và học hỏi.

Không chỉ có cái nhìn thoáng hơn với nhạc nhẹ, cũng như nhiều bài hát từng bị cấm sử dụng, mà còn có sự chuyển đổi lớn về nhận thức đối với nhạc cổ thông qua việc gây dựng chuyên ngành dân tộc nhạc học cùng những quan điểm mới mẻ về giá trị nghệ thuật và phương thức bảo tồn di sản. Có cơ hội tiếp cận âm nhạc các dân tộc ngoài châu Âu, lý luận âm nhạc mở rộng tầm nhìn để từ đó xem lại mình, thoát dần lối áp đặt thước đo lý thuyết phương Tây trong đánh giá và thực hành âm nhạc truyền thống Việt Nam. Đây là bước chuẩn bị cho xu thế hòa nhập thế giới, cho sự chấp nhận những khác biệt để hướng tới tính đa dạng ở thế kỷ XXI.

Thời đại công nghệ tin học mở rộng mặt bằng hoạt động ra khắp toàn cầu trong mọi lĩnh vực sáng tác, biểu diễn, đào tạo và lý luận. Sản phẩm âm nhạc phong phú chưa từng có. Diễn đàn bình luận âm nhạc dưới các hình thức đọc - nghe - nhìn cũng trải rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt mạng xã hội. Không gian hoạt động càng rộng mở thì vai trò kết nối càng cần thiết và cấp bách.

Lý luận âm nhạc có cơ hội khẳng định vai trò liên kết của mình chủ yếu trong một số hoạt động quy mô mang tính chuyên ngành và chính thống, như thực hiện và in ấn các công trình khoa học tầm vĩ mô, giáo trình đào tạo âm nhạc các cấp; quảng bá âm nhạc Việt Nam qua các tọa đàm, hội thảo, hội nghị quốc gia và quốc tế; xây dựng các bộ hồ sơ xét duyệt di sản nhân loại cho nhiều loại hình nhạc cổ. Còn những hoạt động mang tính đại chúng trên báo chí, phát thanh và truyền hình được lấp đầy bởi một lực lượng đông đảo không liên quan tới chuyên ngành lý luận âm nhạc: các nhà báo, phóng viên, biên tập viên... Gần như có sự phân chia địa bàn hoạt động: kết nối mang ý nghĩa lâu dài là trọng trách của các nhà chuyên môn, còn kết nối đáp ứng tính thời sự thuộc về giới truyền thông. Dù tự nhốt mình trong “tháp ngà” kinh viện, giới lý luận vẫn như được mọc thêm cánh tay nối dài ra đời sống xã hội nhờ các nhà bình luận âm nhạc “ngoại đạo”.

Trong thời đại mới, tác phẩm âm nhạc có thể vượt khỏi giới hạn thông thường để kết hợp âm thanh với các ngôn ngữ nghệ thuật biểu hiện khác, như hình thể, ánh sáng, màu sắc, phim ảnh…; rời bỏ sân khấu nhà hát và bục diễn phòng hòa nhạc để vang lên giữa đường phố hay bất kỳ đâu trong không gian thực địa. Trước “thực thể” đa giác quan xóa nhòa ranh giới giữa các loại hình nghệ thuật trên mặt bằng mở như thế, lý luận âm nhạc buộc phải mở rộng biên độ tiếp cận và liên kết. Không thể chỉ đóng khung trong vai trò “giải mã” thuần túy những cấu trúc nội tại của bản nhạc theo chuẩn mực trước đây, giới lý luận bắt đầu học cách cảm nhận âm nhạc như một hiện tượng văn hóa xã hội, một sản phẩm tổng hợp của nghệ thuật với kỹ thuật điện tử và công nghệ thông tin. Tính liên ngành được củng cố thêm trong mối quan hệ chặt chẽ giữa nghệ thuật với các bộ môn khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, trong chức năng kết nối cả về chiều dọc (giữa truyền thống và hiện đại, giữa các thế hệ khác nhau về thị hiếu), cũng như chiều ngang (giữa các loại hình nghệ thuật, giữa các đối tượng thưởng thức khác nhau về thẩm mỹ). Quá phức tạp!

Bối cảnh phức tạp lúc này buộc lý luận âm nhạc phải đối mặt với vô số thử thách. Dù đã cởi mở và chuyển biến nhiều trong nhận thức, nhưng chưa thể nói chuyên ngành lý luận đã theo kịp tốc độ đổi thay của đời sống âm nhạc, chưa thể khẳng định giới lý luận thực sự thoát khỏi thói quen áp đặt từ thuở một chiều đơn tuyến và đã đủ kỹ năng tổng hợp để đan dệt mạng lưới bao trùm không gian đối thoại đa chiều. Điều gì đã cản trở lý luận âm nhạc chuyên nghiệp thực thi vai trò kết nối của mình một cách hiệu quả và xác đáng?

Bài học thực tiễn

Có bài học không dễ nhận ra khi chưa đủ độ lùi cần thiết để có tầm nhìn bao quát và toàn diện. Nhận ra không dễ, nói ra càng không dễ. Nói sao để không hiểu sai thiện chí và tinh thần xây dựng, quả là khó! Nói đã khó, làm còn khó hơn. Làm sao để không phí hoài những kinh nghiệm đã phải trả giá đắt, thật chẳng dễ chút nào!

Hai bài học đáng lưu tâm nhất nhưng lại khó diễn đạt vì dễ đụng chạm nhất, ấy là chính trị hóa và thương mại hóa.

Mục tiêu hàng đầu của một giai đoạn nhất định nếu vẫn tiếp tục kéo dài sự ưu tiên quá thời hạn, chừng như vô hạn định, thì sẽ ngày càng rời xa ý nghĩa tích cực ban đầu và dễ dẫn đến hệ quả khôn lường.

Được huy động tập trung tuyệt đối vào mục tiêu lớn lao: đấu tranh giải phóng dân tộc, âm nhạc đã phát huy tác dụng như một công cụ ý thức hệ và tác phẩm âm nhạc luôn được quy chiếu bằng lập trường tư tưởng. Định vị và làm rõ ý nghĩa chính trị của tác phẩm chính là nhiệm vụ của lý luận âm nhạc.

Chính trị hóa tiêu chí đánh giá tác phẩm đã in sâu vào nếp nghĩ thời chiến và vẫn được bảo lưu trong thời bình. Âm nhạc nhiều khi mất đi sự nhìn nhận theo giá trị nghệ thuật tự thân. Cái đẹp của sáng tạo nghệ thuật thường nhường chỗ cho mục tiêu tuyên truyền và giáo dục. Bài hát đạt yêu cầu trước hết nhờ lời ca đúng lập trường dù có chút non yếu về tay nghề. Ngược lại, bài hát dù giai điệu hay mà lời ca không bám sát chủ trương chính sách thời đó, có khi chỉ vô tình vướng vài từ dễ bị suy diễn cũng không được chấp nhận. 

Luôn tác động mạnh mẽ vào đời sống ca nhạc, nhận thức chính trị có thể quyết định sự sống còn của một tác phẩm âm nhạc, một dòng nhạc, một loại hình nhạc cổ. Từ ý thức đến thực thi còn nảy sinh sai số, mà sai một ly đi một dặm. Thực tế còn đó bài học đắt giá về sự cấm đoán nghiệt ngã tàn dư của chế độ phong kiến đã đẩy không ít di sản của tổ tiên vào nguy cơ thất truyền. Thực tế cũng cho thấy không ít ca khúc về sau được ghi danh “bài ca đi cùng năm tháng” lại từng bị gắn “mác” tiêu cực như “lạc quan tếu” ở thời chống Pháp, “thiếu tính chiến đấu” ở thời chống Mỹ, “có vấn đề” về nội dung tư tưởng ở thời hậu chiến. Nhiều bài hát lãng mạn, những cảm xúc riêng tư, những trăn trở cá nhân vẫn tiếp tục bị phê phán và nghiêm cấm nhiều năm sau chiến tranh. Quan điểm cứng nhắc khó bỏ đã làm đời sống ca nhạc trở nên đơn điệu mức nào và cuộc khủng hoảng thiếu rồi thừa tình ca dẫn đến môi trường rối loạn thế nào hẳn các nhà quản lý văn hóa chưa thể quên.

Bài hát mang tinh thần nhập cuộc vào đời sống xã hội lắm biến động dễ vấp phải định kiến chính trị và quan niệm hẹp hòi trong kiểm duyệt, khiến nhiều tác giả đã chọn vùng an toàn chỉ một màu ngợi ca. Khi người làm nhạc, trong đó có lý luận luôn phải cẩn trọng dè chừng thì tư duy sáng tạo khó mà dồi dào. Không đủ vị thế độc lập để phản biện hay kết nối với các khuynh hướng sáng tạo khác biệt, lý luận chuyên nghiệp chẳng những khó đồng hành cùng tác giả có tinh thần nhập cuộc để kịp thời bảo vệ tác phẩm “có vấn đề”, mà còn gần như rời xa người nghe trong cảm thụ nhạc giải trí.

Nếu chính trị hóa là bài học về nhận thức kéo dài từ thế kỷ trước đến nay vẫn để lại dư âm trong cách định giá chất lượng âm nhạc, thì thương mại hóa là bài toán khó giải trong vận hành âm nhạc thế kỷ này. Đây là câu chuyện mang tính thời đại: âm nhạc bị quy chiếu bằng lợi nhuận doanh thu.

Sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã đưa khái niệm “thị trường” vào đời sống âm nhạc. Từ đó các cụm từ “nhạc thị trường”, “thị trường âm nhạc” cũng chính thức xuất hiện trong lý luận âm nhạc để chỉ các sản phẩm nhạc giải trí đang ăn khách, đang bán chạy.

Tìm hiểu thị hiếu âm nhạc đại chúng, nghe ngóng thị trường ca nhạc là mối bận tâm của các ông bầu bà sô, các nhà đầu tư sản xuất chương trình và chẳng mấy can hệ tới giới lý luận âm nhạc chuyên nghiệp. Sản phẩm ca nhạc được đánh giá không theo tiêu chí nghệ thuật với các giá trị thuộc chiều sâu, mà chỉ đơn thuần bám lấy bề nổi hình thành từ sở thích đám đông. Yêu cầu hàng đầu là bắt tai, bắt mắt, dễ tiêu thụ. Sản phẩm ca nhạc hạ thấp dần các chuẩn mực thẩm mỹ, loại bỏ dần các cấu trúc phức tạp, cũng như cách biểu hiện đa tầng đa nghĩa vốn đòi hỏi trình độ hiểu biết nhất định trong sáng tạo và cảm nhận…, mà tất cả những thứ này lại thuộc đối tượng nghiên cứu của lý luận chuyên nghiệp.

Thành công và sự nổi tiếng của ca sĩ, nhạc sĩ được tính theo lượt truy cập (view), độ lan truyền (viral), khả năng tạo xu hướng và nắm bắt trào lưu (trend). Thưởng thức âm nhạc được dẫn dắt bởi thuật toán với cách làm nhạc chạy theo phong trào ngắn hạn, bởi lối bình nhạc câu khách với những câu chuyện ngoài âm nhạc. Cứ thế giới lý luận chuyên nghiệp bị gạt ra rìa sinh hoạt ca nhạc đại chúng và họ cũng mất luôn mối liên kết với giới trẻ đang làm nhạc và thưởng thức nhạc.

Không nằm ngoài cơn lốc thị trường, nhạc cổ cũng “show hóa” và nghệ nhân cũng “chạy sô” như nghệ sĩ ngành giải trí. Nhiều loại hình cổ truyền được đóng gói thành tiết mục cho khớp với yêu cầu nhà hàng, tour du lịch, sự kiện doanh nghiệp... Để kiếm sống, để “thượng đế” của các doanh nghiệp có vài phút trải nghiệm nhạc cổ, nghệ nhân buộc phải chấp nhận những show diễn ngày càng rời xa cái cần gìn giữ. Cái gốc không được bảo tồn và phát huy đúng cách, thì cái ngọn chỉ còn vỏ bọc hình thức, càng được đánh bóng hào nhoáng càng giống đồ giả cổ. Cảnh báo của giới chuyên môn chưa có hiệu quả mong muốn, bởi tiếng nói của lý luận chuyên nghiệp khó vượt qua khoảng cách quá xa để tác động tới thị trường âm nhạc.

Nếu áp đặt không đúng chỗ đúng mức, chính trị hóa có thể làm mất đi tính chân thực trong sáng tạo nghệ thuật, còn thương mại hóa đang làm nhạc mới dễ loạn chuẩn, làm vốn cổ mất dần yếu tố thiêng và hồn cốt dân tộc. Đáng lo ngại lắm chứ khi những cái mất ấy được chấp nhận như thể đó là cái giá tất yếu.

Đối mặt với những hệ quả từ quá khứ, lý luận chuyên nghiệp có thể làm được gì? Trước hết để “ta biết ta” thì chuyên ngành này phải tự nhìn lại thực lực hiện có của mình.

Nhìn vào hiện trạng

Ngành lý luận âm nhạc ở ta trước nay vẫn đề cao tính đồng nhất nên không thể hiện diện trường phái này trường phái nọ như ở phương Tây. Tạm thời chỉ có thể nói đến vài xu hướng khác nhau qua cách tiếp cận và tìm hiểu đối tượng, qua hệ quy chiếu dùng để đánh giá tác phẩm hoặc sự việc liên quan đến âm nhạc, qua khả năng tư duy, biểu hiện và kết nối. Nếu nhìn từ góc độ kết nối, thì mỗi xu hướng thực hiện chức năng này ở mặt bằng riêng với mục tiêu khác nhau và chưa xu hướng nào đảm bảo được vai trò liên kết một cách toàn diện, đủ rộng và đủ sâu.

Giữ vị trí tiên phong và dài lâu nhất là lý luận theo yêu cầu chính trị. Với chủ trương toàn tâm toàn ý phục vụ lý tưởng cách mạng, xu hướng này luôn đánh giá cao sự đúng đắn về đường lối trong sáng tác, chú trọng cái tốt về tư tưởng hơn là cái hay về nghệ thuật, xem xét và ghi nhận chủ đề nội dung lời ca hơn là ngôn ngữ âm nhạc.

Sau khi hoàn thành “sứ mạng lịch sử” trong thời kỳ cách mạng, xu hướng này vẫn tiếp tục duy trì vị thế chỉ đạo và tác động không nhỏ vào cách thẩm định tác phẩm trong các phong trào ca nhạc, các cuộc vận động sáng tác, liên hoan, hội diễn và xét giải thưởng âm nhạc… Luôn còn đó sự kết nối mang tính định hướng giữa giới quản lý với giới nhạc, giữa những người làm chính sách và đời sống âm nhạc.

Lý luận mang tính học thuật xuất hiện muộn hơn, sau khi điều kiện đào tạo âm nhạc hàn lâm được củng cố. Các nhà nghiên cứu là người đồng hành xứng tầm với giới sáng tác, biểu diễn và thưởng thức nhạc thính phòng giao hưởng. Đây chính là đại diện duy nhất cho lý luận có hệ thống, là thành phần chủ lực của chuyên ngành lý luận.

Tiếc là nhóm người có thể gánh trọng trách nâng cao dân trí về thưởng thức âm nhạc lại hết sức nhạt nhòa trong đời sống âm nhạc. Cũng phải thôi, chính sách văn hóa nặng về quản lý tổ chức hành chính hơn là nuôi dưỡng tư duy lý luận. Lý luận không được xếp vào diện ưu tiên đầu tư, cũng không giữ vị thế đáng có trong chiến lược phát triển âm nhạc. Nhà lý luận hoàn toàn vắng mặt trong các cuộc xét giải thưởng âm nhạc đình đám của báo chí, cũng như mọi chương trình thực tế thi thố tài năng ca nhạc rầm rộ trên các phương tiện truyền thông. Thua xa giới biểu diễn và sáng tác, người làm lý luận uy tín mấy, sách lý luận giá trị mấy cũng chỉ như áo gấm đi đêm. Thù lao viết nghiên cứu phê bình không đủ sống, mà sống bằng nghề còn chưa đủ thì nói gì đến sức lan tỏa. Phê bình không phải lựa chọn an toàn cho giới lý luận âm nhạc. Sự nối tiếp thế hệ đang đứng trước nguy cơ đứt gãy là có thật.

Kỹ năng liên kết cần được trang bị ngay từ đào tạo. Thực tế không được vậy: chương trình đào tạo vẫn đóng khung theo mô hình cũ, không tiếp cận các trường phái lý luận đương đại quốc tế, thiếu chương trình liên ngành và hổng kiến thức xã hội học, nên các nhà lý luận buộc phải tự học rất nhiều mới đáp ứng được yêu cầu xã hội.

Khả năng liên kết luôn được phát huy trong môi trường thuận lợi. Thực tế cho thấy hoạt động lý luận âm nhạc (hội nghị, hội thảo, tọa đàm…), cũng như sản phẩm lý luận âm nhạc (công trình khoa học, sách nghiên cứu, tạp chí, giáo trình…) ít có hiệu quả xã hội, chủ yếu mang tính nghĩa vụ, báo cáo, tích điểm xét giải thưởng hoặc học hàm học vị, tức là thiên về hình thức hơn là giá trị sáng tạo tri thức lâu dài. 

Xu hướng học thuật chỉ kết nối trong không gian hẹp, trong cộng đồng hoạt động âm nhạc kinh viện hơn là với công chúng phổ thông. Sự khó hiểu trong nội dung nặng về phân tích học thuật, sự khô cứng trong văn phong biểu hiện thường gặp ở các công trình khoa học và giáo trình đào tạo chính là nguyên do cản trở độ lan tỏa của lý luận chuyên nghiệp trong đời sống xã hội.

Phê bình truyền thông là xu hướng bù trừ cho lý luận chính thống. Bất chấp sự thiếu hụt hệ thống khái niệm và kỹ năng phân tích ngôn ngữ âm nhạc, xu hướng này luôn chiếm lĩnh diễn đàn báo chí nhờ đưa tin kịp thời, không bỏ lỡ các sự kiện và hiện tượng ca nhạc. Độ phủ sóng rộng đến mức các cây bút chuyên mục âm nhạc trên các phương tiện truyền thông luôn được coi là người hành nghề phê bình âm nhạc duy nhất. Chẳng những đáp ứng tính thời sự, thỏa mãn tính hiếu kỳ của công chúng, đặc biệt giới trẻ, cánh báo chí còn gánh luôn vai trò định hướng thị hiếu đại chúng thông qua chiến lược quảng cáo, lăng xê, tạo dựng thần tượng. Khi lối bình luận chủ quan mang tính giải trí và luôn bị chi phối bởi những yếu tố phi âm nhạc càng chiếm sóng thì thị hiếu đại chúng càng dễ bị nhiễu loạn.

Ngoài các xu hướng thuộc diện có tổ chức kể trên còn những hoạt động hoàn toàn tự phát trên mạng xã hội, nhưng vẫn dây mơ rễ má với các xu hướng trên. Đây là chỗ ai cũng có quyền bày tỏ cảm nhận cá nhân về âm nhạc và mọi thứ liên quan đến âm nhạc với nhu cầu được sẻ chia, được đồng cảm. Nhờ đó mà lối viết “ăn theo nói leo” có điều kiện bùng phát: những khúc tâm tình tự sự trên Facebook của giới nhạc, nhất là người nổi tiếng lập tức trở thành nguồn khai thác miễn phí để báo chí tái sử dụng và chế thành bài bình luận hoặc phỏng vấn hàng loạt tên tuổi dù chẳng hề mất công tiếp xúc đối tượng nào.

Status, video clip bình luận, quảng bá và review sản phẩm ca nhạc có số lượng theo dõi lớn đã tạo dựng tên tuổi cho các facebooker, youtuber, tiktoker… Các trend và streammer cùng các nhóm fan hoặc anti-fan tác động đáng kể đến sáng tác, biểu diễn và cảm thụ ca nhạc. Một môi trường “trao đổi chất” cho các mối quan hệ đa chiều rất hiệu quả. Sức kết nối cộng đồng ở đây vô cùng lớn và có ảnh hưởng nhiều đến tương lai vì cư dân mạng phần lớn còn trẻ và rất trẻ.

Với điểm mạnh điểm yếu riêng, các xu hướng kể trên hoạt động gần như tách biệt. Những mảng miếng rời rạc nếu được ghép lại một cách khéo léo, bù trừ thiếu hụt cho nhau một cách hợp lý, liệu có được bức toàn cảnh khả dĩ cho lý luận phê bình âm nhạc không nhỉ? Có thể lắm chứ, nhưng sắp đặt gắn kết sao cho hài hòa và hợp lý không đơn giản chuyện ngày một ngày hai.

Nhìn tới tương lai

Muốn lý luận âm nhạc phát huy được chức năng kết nối, trước hết phải nhìn nhận sự tồn tại ngành này như một yếu tố góp phần kiến tạo văn hóa xã hội. Muốn ngành này hiện diện như một trong những thành phần xây nền móng vững chắc cho âm nhạc chứ không phải thứ bày biện cho có, trước hết phải chấp nhận tính đa dạng với tư duy mở như một điều kiện cần cho hệ thống lý luận độc lập, khách quan, có khả năng phản biện. Muốn đưa lý luận phê bình âm nhạc vào chiến lược phát triển văn hóa quốc gia, thì không thể thiếu quỹ tài trợ sáng tạo và kinh phí thường niên cho hoạt động lý luận.

Nghe có vẻ đao to búa lớn, nhưng không sai nếu nói: lý luận âm nhạc cần một cuộc tái cấu trúc đồng bộ về chất lượng học nghề và môi trường hành nghề, về chính sách và nhận thức xã hội đối với chuyên ngành này.

Việc nâng cấp chất lượng nghề nghiệp liên quan tới điều chỉnh chương trình giảng dạy tại các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, mở khóa tập huấn cho các nhà lý luận ứng dụng nghiệp vụ liên ngành (báo chí, văn hóa học, xã hội học, tâm lý học, tin học…), mở lớp trang bị kiến thức âm nhạc cho các đối tượng chuyên bình luận âm nhạc trên các phương tiện truyền thông.

Việc gây dựng môi trường làm nghề cần chú trọng: lưu trữ, hệ thống và quảng bá tài liệu lý luận âm nhạc trên nền tảng số quốc gia; thực thi luật bảo vệ quyền tác giả trong lĩnh vực lý luận âm nhạc để hạn chế nạn đạo văn phổ biến lâu nay; xây dựng đề án mang tầm quốc gia về lý thuyết âm nhạc Việt Nam - điều mà nhiều thế hệ nghiên cứu ấp ủ bao năm vẫn chưa thực hiện được; đầu tư cho hoạt động của các tổ chức nghiên cứu âm nhạc, đặc biệt Viện Âm nhạc là cơ quan sở hữu Bảo tàng âm nhạc và Ngân hàng dữ liệu di sản âm nhạc nước nhà nhưng đang xuống cấp điều kiện lưu trữ kho tài liệu âm thanh cũng như văn bản có giá trị lịch sử. 

Không tiếp tục bỏ qua một trong những yêu cầu thiết thực trong sinh hoạt âm nhạc: sự có mặt của nhà lý luận chuyên nghiệp trong các chương trình bình luận âm nhạc, giới thiệu tác giả - tác phẩm trên báo chí, truyền thông và nền tảng số; trong các hội đồng nghệ thuật, dự án nghệ thuật, liên hoan âm nhạc, tập huấn sáng tác...

Trên đây là vài yêu cầu khách quan trong việc nâng cấp đào tạo và gây dựng môi trường lý luận. Cũng cần nói thêm là hiệu quả kết nối còn phụ thuộc vào nỗ lực chủ quan của các nhà chuyên môn. Thí dụ: rất cần có sự liên kết trong chính nội bộ giới lý luận phê bình với tinh thần xây dựng, chấp nhận và tôn trọng ý kiến khác biệt. Cũng rất cần sự kết nối với thế hệ tương lai, bớt khắt khe xét nét với tuổi trẻ, đặc biệt ở mảng ca nhạc giải trí, trân trọng những điểm mạnh và khích lệ những nét tươi mới ít thấy ở thế hệ trước: vẻ quyến rũ, đa năng, táo bạo, cuồng nhiệt, hết mình.

Đa dạng, rộng mở, không ngăn cản quyền tự do tư duy và không áp đặt thô bạo trải nghiệm âm nhạc vào các khung quy chiếu phi nghệ thuật, một không gian như thế thật lý tưởng cho vai trò liên kết đa chiều của lý luận - đó là điều rút ra từ bài học kết nối sau gần thế kỷ qua. Còn nữa, một khi được thực sự tin tưởng, được hỗ trợ đúng lúc và đúng mức, nhà lý luận âm nhạc càng tự thấy có trách nhiệm hơn, càng có ý thức sáng tạo hơn trong văn phong biểu hiện, để lý luận phê bình xứng là nơi âm nhạc được tiếp tục sống trong con chữ.

15-6-2025

Chia sẻ:
facebook share
instagram share instagram share

Xem nhiều