Tác giả: Lê Hải Đăng

Phân loại là một phương pháp tư duy phổ biến giúp cho quá trình nhận thức trở nên rõ ràng. Tuy nhiên, phân loại cũng dễ khiến người ta “sập bẫy”. Bởi, trong quá trình nhận thức, não bộ không chia rạch ròi các loại phương pháp. Ở nhiều lĩnh vực, nhất là nghệ thuật, phân loại chỉ nhằm định dạng, chứ không có tác dụng định giá tác phẩm. Trong khi tiếp xúc thể loại âm nhạc, nhiều người có xu hướng định dạng, rồi định giá tác phẩm.
Nhà soạn nhạc F. Chopin học với thầy Jozef Elsner ở trường Cao đẳng Âm nhạc Warsaw từng nhận được lời khuyên: “đàn piano rất hay, nhưng sáng tác cho cây đàn này chỉ giành cho những người mà tư duy không vượt khỏi dãy phím đàn.” Bấy giờ thể loại được giới âm nhạc đánh giá cao là Opera. Trước sự thành công của Felix Meldenssohn với Overture “Giấc mộng đêm hè”, F. Chopin đã lên kế hoạch sáng tác Opera. Song, sự xuất hiện của N. Paganini như một cú hích đã khiến Chopin thay đổi ý định, đồng thời quyết định giành cả cuộc đời phụng sự đàn piano. Bởi, ông cũng muốn trở thành một Paganini ở cây đàn này.
Loạt sáng tác đầu tiên Chopin gửi lên thầy là Etude. Như chúng ta biết, Etude được coi là khúc luyện tập (kỹ thuật). Người đặt nền móng cho nó ở đàn piano là Czerni, học trò của L.v. Betthoven, thầy của Franz Liszt. Đến Chopin, ông đã tạo ra cuộc cách mạng cho thể loại này cả về phương diện kỹ thuật lẫn nghệ thuật, trở thành “sách gối đầu giường” của các pianist. Etude Chopin được đưa lên sân khấu trình diễn, đi vào nội dung học tập, thi cử trong Nhạc viện, các cuộc thi piano quốc tế. Nói như pianist Lang Lang, Khúc luyện tập của Chopin chính là “Khúc luyện tình”. Nó không chỉ tập trung giải quyết vấn đề kỹ thuật mà còn hướng tới rèn luyện cách thức thể hiện tình cảm, phương diện cốt lõi của nghệ thuật âm nhạc. Sự chuyển hóa mang tính cách mạng nằm ở cách thức Chopin định giá lại thể loại âm nhạc. Nó cao hay thấp, sến hay sang không còn lệ thuộc vào thể loại nữa. Polonaise của Chopin từng bị “ghẻ lạnh” lúc sinh thời, bởi xuất xứ từ vũ khúc dân gian. Nhưng, sau khi nhà soạn nhạc qua đời, Polonaise của Chopin càng ngày càng nhận được sự ưa chuộng. Gần đây nhất, tại cuộc thi piano quốc tế mang tên Fryderik Chopin lần thứ 19 tổ chức ở Warsaw, thủ đô Ba Lan, lần đầu tiên Polonaise-Fantaisie Op.61 chọn làm tác phẩm bắt buộc trong vòng chung kết. Thí sinh phải hoàn thành thêm một tác phẩm solo trước khi đàn Concerto cùng với dàn nhạc.
Tại sao lại có sự thay đổi mang tính cách mạng như vậy? Có nhiều cách lý giải về hiện tượng trên, trong đó có tầm vóc của tác phẩm. Mặc dù lấy tên vũ khúc, nhưng Chopin đã chuyển hóa Polonaise thành một tác phẩm tích hợp nhiều thể loại, từ Biến tấu, Ballade cho đến Sonate, những thể loại có khả năng thể hiện nội dung, tình cảm phức tạp. Tác phẩm viết vào giai đoạn cuối đời của tác giả. Nó chất chứa, dồn nén rất nhiều nội dung, thậm chí mang tính dự báo về số phận đời người. Nhiều pianist đã thể hiện tác phẩm này, nhưng dường như vẫn chưa có ai giành ưu thế tuyệt đối.
Nghệ thuật có sự chuyển hóa kỳ diệu, có khả năng xóa nhòa đi làn ranh giữa các tầng ý thức. Nhiều điệu nhảy dân gian đã đi vào sáng tác chuyên nghiệp, như tổ khúc của J.S. Bach, Polonaise, Marzuka của Chopin, nhạc kịch của V.A. Mozart… và trở nên nổi tiếng. Đến Gustav Mahler, giai điệu một bài đồng dao cho con nít “Bạn đã ngủ chưa” cũng có thể chuyển hóa thành chủ đề “Người khổng lồ” trong chương 3, giao hưởng số 1 của ông. Không hiếm vũ khúc bình dân, có khi dung tục sau khi vào tác phẩm của J.S. Bach trở nên sang trọng, linh thiêng, như Sarabanda chẳng hạn. Nhạc kịch của Mozart có vở sáng tác nhằm phục vụ những buổi tiệc, nhưng đã đi vào lịch sử âm nhạc, sách giáo khoa giảng dạy trong Nhạc viện. Khi đề cập đến âm nhạc cổ điển, nhiều người liên tưởng đến văn hóa tinh anh, tao nhã, những thánh đường, tháp ngà… được hình dung. Kỳ thực, đa số nhà soạn nhạc vĩ đại của chúng ta xuất thân bình dân, nhưng phục vụ tầng lớp quý tộc, thượng lưu, quan trọng là không vì thế mà tác phẩm của họ trở nên bình thường, tầm thường...
Ở Việt Nam, nhiều người dị ứng với nhạc Bolero, thậm chí bị coi là nhạc vàng, nhạc sến. Sự thực, sến hay sang không nằm ở thể loại. Bolero xuất xứ từ Tây Ban Nha sau lan sang Cuba, Mexico, châu Mỹ Latinh. Năm 2023, Bolero được Unesco công nhận Di sản văn hóa phi vật thể của nhận loại theo hồ sơ đăng ký của Cuba và Mexico. Một nhà nghiên cứu người Đài Loan là Quách Đại Hâm từng lấy Bolero Việt Nam làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ “The Nostalgia and Revival of Bolero Music: Seeking the Soul of Vietnam” ở Áo. Anh đã đi nhiều nơi trên thế giới thuyết trình về Bolero Việt Nam. Trong khi ở Việt Nam có nhiều người lên tiếng phản đối dòng nhạc Bolero, trong đó có cả quan chức, lãnh đạo ngành văn hóa, nhạc sĩ chuyên nghiệp...
Tính phức tạp của từng thể loại âm nhạc vốn khác nhau. Nhưng, tính nghệ thuật và thẩm mỹ của nó có những điểm chung, không lệ thuộc vào quy mô, chiều kích… cũng như độ tinh xảo. Bởi, tác phẩm âm nhạc không phải chíp điện tử, càng không phải lò phản ứng hạt nhân. Nó cần sự rung động của trái tim, độ vô tư của tâm hồn, nội dung tình cảm và hình thức đẹp. Một câu hò Đồng Tháp cất lên đã có thể hớp hồn người nghe, chứ chưa cần chờ tới phần phát triển và còn muôn vàn trường hợp tương tự. Sự khác biệt giữa từng thể loại, khái niệm bình dân hay bác học, Hàn lâm hay đại chúng… chỉ mang tính tương đối. Ngay vào thời kỳ âm nhạc cung đình chiếm vị trí quyền uy trong đời sống thì đối trọng với nó là dân gian, một môi trường sống động, năng động, góp phần cung cấp chất liệu cũng như nguồn lực cho triều đình. Khi nghệ thuật Hàn lâm, chuyên ngiệp rơi vào khủng hoảng, bế tắc, nghệ thuật dân gian trở thành “chiếc nôi” để người ta trở về. Rốt cuộc, sang hay sến không nằm ở thể loại mà chính là thẩm mỹ.