Bài hát
Người về đem tới ngày vui
Tác phẩm giao hưởng thơ "Người về đem tới niềm vui" ra đời vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1990).
Nhạc sĩ Trọng Bằng đã viết nên tác phẩm này bằng cảm xúc chân thành nhất của mình. Ông mong muốn và cảm thấy thôi thúc phải viết một tác phẩm khí nhạc về tình yêu lớn lao của nhân dân Việt Nam dành cho cụ Hồ. Là tác phẩm giao hưởng, nhưng phải dễ nghe, dễ được công chúng đón nhận, phải là giai điệu thật gần gũi Ông đã viết nên "Người về đem niềm vui tới" với những cảm hứng đến từ ca khúc "Ca ngợi Hồ Chủ tịch" của nhạc sĩ Văn Cao, một tác phẩm bất hủ có một sức cuốn hút mạnh mẽ với mọi tầng lớp khán giả. Bản thân tác giả Văn Cao cũng rất xúc động khi nghe tác phẩm. Nhạc sĩ Trọng Bằng chia sẻ: Nhạc sĩ Văn Cao đã động viên tôi: “Cảm ơn Bằng đã làm cho câu nhạc của mình trở thành một bức tranh đẹp đẽ đầy hình tượng và màu sắc…”
Nhạc sĩ Trọng Bằng nói về trình tự cảm xúc và sự lý giải của riêng ông về tác phẩm: Chủ đề 1 là một khúc ngợi ca, tự hào về người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc với tình cảm trữ tình, tha thiết bao la, giới thiệu với khán giả chất liệu âm nhạc rất rõ ràng từ câu hát Người về đem tới ngày vui.
Chủ đề 2 là những hồi tưởng khi Bác trở về đất nước, âm nhạc rộn ràng hơn với những tiếng lá, tiếng suối reo, của núi rừng Pắc Bó, chủ đề được biến tấu với màu thứ.
Phần phát triển diễn tả sự quyết liệt, giẳng co giữa các motive trong chủ đề, đó cũng chính là những trăn trở, những khốc liệt trong cuộc chiến tranh của đất nước trong công cuộc dành độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Bác, phần phát triển đưa chủ đề chính trở thành một hành khúc hoành tráng, trang nghiêm.
Trong phần Episode tôi để chủ đề chính đan xen với toàn bộ một ca khúc khác của tôi là Quê hương vang lên tiếng hát tự hào.
Đến phần Coda, tôi đưa vào đó cả nét nhạc trong một ca khúc tôi sáng tác từ năm 14 tuổi với câu hát “Hồ Chí Minh ánh dương trên trời cao” trong khi vẫn tiếp tục đan xen chủ đề chính.
Nói chung, chỉ với 5 nốt nhạc được dùng với các thủ pháp khác nhau, chủ đề vẫn luôn xuyên suốt và trở nên ấn tượng đối với khán giả.
Ngoài lễ kỷ niêm 100 năm sinh nhật Bác, tác phẩm này được vinh dự có mặt trong chương trình biểu diễn hòa nhạc của nhiều sự kiện quan trọng như Lễ kỉ niệm Quốc Khánh năm 1990, lễ kỉ nệm 15 năm thành lập nhạc viện TP HCM, 40 năm thành lâp Nhạc viện Hà nội, hội nghị ASEM ở Copenhaghen năm 2002, Festival Nhật Bản 2006…
Đây cũng là một trong những tác phẩm của nhạc sĩ Trọng Bằng được nhiều nhạc trưởng trình diễn nhất, trong đó có nhạc trưởng nước ngoài như Tetsuji Honna, Yoshikazu Fukumura, Colin Metters, Graham Sutcliffe, Adrian Tan… Năm 2000, khi được biểu diễn ở làng Sen quê Bác, nhạc trưởng Nguyễn Thiếu Hoa kể rằng dân chúng đã kéo đến xem rất đông, nghe nhạc giao hưởng với một thái độ chăm chú và say sưa. Nhạc trưởng Nhật Tetsuji Honna trình diễn bản này tại Tokyo, Osaka và giới thiệu với công chúng: “Đây là tác phẩm của nhạc sĩ Việt Nam viết tặng vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh”, khán giả đã đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt, yêu cầu dàn nhạc chơi lại (Bis). Năm 2001, khi Dàn nhạc giao hưởng Quốc gia Việt Nam biểu diễn tại Bangkok, các nhạc công của dàn nhạc Bangkok đã ùa lên sân khấu chúc mừng, đòi xin tổng phổ, phân phổ ngay tại chỗ…
Qua tác phẩm này, chúng ta cũng thấy rằng không phải quá khó để giao hưởng thính phòng “thuyết phục” được công chúng. Để hiểu được âm nhạc bác học thì quần chúng phải có một trình độ nhất định. Nhưng nhạc sĩ không thể đòi hỏi ở công chúng mà phải tìm cách tiếp cận bằng những thủ pháp sáng tác, cách thức phát triển những nhân tố, chất liệu âm nhạc một cách hài hòa. Nhạc sĩ cần có vốn nhất định trong kho tàng âm nhạc cổ truyền, âm nhạc dân tộc Việt Nam, thấm nhuần nó để luôn giữ được vẻ đẹp của cái hồn dân tộc cho dù có phát triển, biến đổi thế nào. Trên hết, nhạc sĩ phải là người có tâm, có trình độ và viết tác phẩm bằng cảm xúc thật sự của mình. Trình độ để đảm bảo tác phẩm được viết lên một cách chặt chẽ, cấu trúc rõ ràng, diễn tả âm nhạc mạch lạc, có logic. Cảm xúc mang lại cái hồn cho tác phẩm, và cảm xúc đó nếu như được bắt nguồn từ kho tàng âm nhạc dân gian, thấm đượm tiếng nói dân tộc thì sẽ trở nên gắn bó, gần gũi, thân thương. Có được những yếu tố đó thì có lẽ công chúng sẽ tiếp nhận tác phẩm một cách dễ dàng và tự nhiên hơn.
Trọng Bằng là nhạc sĩ, nhạc trưởng, nhà sư phạm, giáo sư người Việt Nam. Ông là một Nghệ sĩ nhân dân. Ngoài ra, ông là còn là một đại biểu của Quốc hội Việt Nam khóa X.
Xuất thân của người nhạc sĩ này là một gia đình mà người cha là một công chức ngành xây dựng biết chơi thành thạo đàn bầu và đàn tranh tại Gia Lâm, Hà Nội. Trọng Bằng là em trai của nhạc sĩ Trọng Loan.
Năm 1956, ông được cử đi du học tại Liên Xô cũ. Môn học mà ông học ở đây đó là chỉ huy một dàn nhạc giao hưởng. Trọng Bằng đã trở thành người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp Nhạc viện Tchaikovsky với tấm bằng đỏ. Tiếp theo, ông trở về đất nước, trở thành giảng viên của Trường Âm nhạc Việt Nam và nhạc trưởng của nhiều dàn nhạc giao hưởng ở Hà Nội. Năm 1969, một lần nữa nhạc sĩ Hà Nội được cử đi Liên Xô để hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh ở chính Nhạc viện Tchaikovsky. Trong các năm 1972-1978, ông chính thức trở thành người nhạc trưởng của Nhà hát Giao hưởng – Hợp xướng – Nhạc Vũ Kịch Việt Nam. Cũng tại đây, ông trở thành phó giám đốc kiêm chỉ đạo nghệ thuật vào năm 1975.
Trong các năm 1978 – 1984, Trọng Bằng là phó giám đốc Nhạc viện Hà Nội, đồng thời là giám đốc của một dàn nhạc giao hưởng do chính ông thành lập với sự ủy nhiệm của Bô Văn hóa. Tiếp theo, từ năm 1984 đến năm 1996, ông trở thành giám đốc của Nhạc viện Hà Nội. Với sự cố gắng của mình, ông đưa nhạc viện trở thành một trong những trung tâm đào tạo về âm nhạc có uy tín ở trong và ngoài nước. Năm 1995, nhạc sĩ trở thành tổng thư ký của Hội Nhạc sĩ Việt Nam khóa V và khóa VI.
Không có mục để hiển thị