ÂM NHẠC VIỆT NAM: 50 NĂM - MỘT GÓC NHÌN (phần 1)

07:00 AM, Thứ năm, 11/09/2025
295

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Châu

 

 

Xin giới hạn bài viết trong góc nhìn của một cá nhân cũng đã ngót 50 năm gắn bó với chuyên ngành lý luận âm nhạc. Thêm nữa, thay vì liệt kê thành tích theo truyền thống "tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy vào", xin được ưu tiên những vấn đề nổi cộm và nếu đôi chỗ thiên về tinh thần tự phê, thì cũng chỉ vì mong muốn chúng ta trở nên vững vàng hơn từ những bài học quá khứ để bớt sai tương tự thế trong tương lai. 

Từ lâu báo cáo thành tích đã thành “lệ làng” và khiếm khuyết thường chỉ được điểm qua đôi chút gọi là. Bệnh sĩ, bệnh thành tích đã khiến nhiều người tránh động đến cái dở, dị ứng với ý kiến phản biện, thậm chí còn gay gắt với người phản biện và coi phản biện như phản động. Đó chẳng phải là một biểu hiện của sự mặc cảm, tự ti sao? Nếu chúng ta lạc quan và hướng thiện thì đâu sợ đối diện với cái dở của mình. Ai cũng có thể mắc lỗi, và lỗi lầm cho ta bài học để không sai tương tự thế trong tương lai.

Phản biện là nhân tố cần thiết cho một xã hội phát triển lành mạnh hơn. Xem xét cái chưa được, cái dở, cái sai, cái mất đi là điều cần làm nếu muốn cải thiện, bù đắp, chỉnh sửa, khôi phục thành cái được, cái hay, cái đúng, cái cần tìm lại. Có những cái sai từ nhận thức. Lại có những cái dở nảy sinh trong thực hành dù về mặt lý thuyết không sai. Biết sai ở đâu, từ đâu - điều tưởng chừng đơn giản này có thể gây hậu quả phức tạp khi ta luôn tránh né nhắc đến. Mỗi lần có dịp nhìn lại cái dở cái sai thế này là cơ hội để giới nhạc cùng các nhà quản lý thấy rõ hơn vị trí của mình, hiệu quả tác động của mình trong đời sống văn hóa nghệ thuật đương đại.

Từ thời điểm hiện tại nhìn về quá khứ, có thể lấy mốc chuyển giao thế kỷ chia 50 năm qua thành hai nửa tương đương: nửa trước thuộc thế kỷ XX là giai đoạn hướng tới sự chuyển đổi và nửa sau thuộc thế kỷ XXI là giai đoạn hướng tới tính đa dạng. Để có được nền âm nhạc muôn màu muôn vẻ cần chấp nhận sự khác biệt. Muốn chấp nhận những khác biệt cần thay đổi trước hết từ nhận thức, cần thoát khỏi những quan niệm cứng nhắc phục vụ yêu cầu nhất thời để vươn tới tầm nhìn xa trông rộng hơn, nhân văn hơn. 50 năm đồng hành cùng sự phát triển của đất nước, những người hoạt động âm nhạc đã nhận được không ít kinh nghiệm thực tiễn về sự thích ứng với thời đại.

25 năm cuối thế kỷ XX

1975-1986

Đất nước thống nhất xóa bỏ ranh giới địa lý cũng như những khác biệt về chính trị và tổ chức xã hội. Tuy nhiên về nhận thức có nhiều điều không kịp thích ứng. Hơn 10 năm hậu chiến vẫn nhất quyết duy trì những quan niệm cực đoan chỉ phù hợp với thời chiến và chưa thể gỡ bỏ những nhận định hẹp hòi ấu trĩ trong đánh giá chất lượng nghệ thuật của tác phẩm âm nhạc. Âm nhạc vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng, tiếp tục triệt để phát huy chức năng ngợi ca những điều lớn lao và cổ động tuyên truyền chính trị. Nhạc sĩ vẫn tiếp tục gạt bỏ mọi nỗi niềm riêng tư để đồng nhất trong tiếng nói chung của đoàn thể.

Sự đơn điệu khô cứng của âm nhạc với thể loại chủ lực là ca khúc quần chúng không đủ xoa dịu những nỗi đau mất mát, không thể đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân trong cuộc mưu sinh chật vật sau chiến tranh. Phải chăng các nhạc sĩ không còn nhạy bén với thời cuộc như trong những năm chiến tranh vệ quốc?

Đâu phải! Trong cuộc khủng hoảng thiếu tình ca vẫn có những bài hát trữ tình mà sau này được tôn vinh là “bài ca đi cùng năm tháng”, nhưng ngay lúc ra đời đã bị khai tử. Có bài bị quy là… nhạc vàng! Nhiều bài không được sử dụng do lời ca “có vấn đề”, có khi chỉ vì một nụ hôn, vì có anh có em, vì động chạm đến những thứ bị coi là “nhạy cảm” của xã hội đương thời. Tinh thần nhập cuộc của giới nhạc dù nhanh nhạy đến đâu cũng khó có được hiệu quả xã hội một khi vẫn còn đó những định kiến khắt khe của các nhà quản lý văn hóa.

1986-2000

Sự chuyển đổi từ chế độ bao cấp sang kinh tế thị trường kéo theo hàng loạt đổi thay trong đời sống ca nhạc. Chính sách Đổi mới bắt đầu tháo gỡ dần những rào cản trong nhận thức. Quản lý văn hóa nghệ thuật thông thoáng hơn nhưng lại dễ rơi vào tình thế bị động: kiểm duyệt khắt khe không còn hiệu lực trong cơ chế thời mở cửa, quản không được đành thả nổi. Chức năng giải trí của âm nhạc bị gạt bỏ suốt mấy thập niên chiến tranh lúc này lại được đặt lên hàng đầu.

Cơn khát tình ca tích tụ trong nhiều năm tạo cơ hội cho sự trở lại của nhạc Sài Gòn trước 1975 và “nhạc tiền chiến” (thực chất là ca khúc trữ tình trước và trong kháng chiến), rồi tới cơn sốt nhạc nhẹ (pop-rock) cùng các ca khúc hải ngoại trước đó còn bị coi là nhạc đồi trụy. Nhạc nội thất thế trước nhạc ngoại với sự xâm nhập ào ạt của karaoke, của băng đĩa hải ngoại. Nhạc nhẹ từng bị lên án gay gắt dần dần được chấp nhận, được xếp bằng vai phải lứa với các loại nhạc theo phong cách thính phòng và dân gian trong ba hạng mục chính thức của các cuộc liên hoan ca nhạc.

Từ độc nhất một “mặt hàng” là ca khúc cách mạng - tức nhạc đỏ theo cách gọi của cánh báo chí, thị trường ca nhạc trở nên rôm rả dần, nào là nhạc trẻ và ca khúc chính trị, nào là nhạc xưa và nhạc tự tình quê hương, trong đó có cả những bài từng bị dán mác nhạc sến và nhạc vàng. Những tên gọi các “dòng nhạc” khác nhau kể trên (sang thế kỷ XXI còn thêm vài tên gọi mới: nhạc bolero, nhạc dân gian đương đại) được định hình chẳng phải từ các nhà lý luận âm nhạc chuyên nghiệp, mà bởi cánh truyền thông vẫn được giới nhạc coi là “dân ngoại đạo”. Thiếu chuẩn xác và không thống nhất về thuật ngữ trong bình luận ca nhạc đã tác động không nhỏ tới mặt bằng dân trí và phần nào cho thấy sự lép vế của lý luận phê bình âm nhạc chuyên nghiệp.

Nhiều khía cạnh tình cảm riêng tư trước đây cấm kỵ lúc này lại nở rộ, quá nhiều tình buồn, tình sầu, tình xa, tình học trò, tình dối lừa, tình chia ly… Tình ca nhanh chóng nhảy từ khủng hoảng thiếu sang khủng hoảng thừa. Dễ nghe và mãn nhãn, sản phẩm ca nhạc để nhìn hơn là nghe. Những sáng tạo thuần túy âm nhạc trong sáng tác và biểu diễn nhiều khi không quan trọng bằng những yếu tố “ngoài âm nhạc”: kỹ thuật âm thanh, thu âm, vũ đạo, ngoại hình, trang phục, ánh sáng, thiết kế sân khấu, quảng bá truyền thông… Yêu cầu kinh doanh ăn khách trở thành mục tiêu hàng đầu trong hoạt động ca nhạc.

Ca khúc thị trường ngày càng thịnh hành và lấn lướt nhạc hát chính thống cũng như nhạc đàn chuyên nghiệp. Sau bước đầu hình thành đầy ngoạn mục những năm 1965-1975, nhạc giao hưởng thính phòng phải đối mặt với tình trạng thả nổi trong nền kinh tế kiệt quệ thời hậu chiến. Khí nhạc đuối dần trong cuộc cạnh tranh khốc liệt với ca nhạc đại chúng thời mở cửa. Không có công chúng, các dàn nhạc giao hưởng và dàn nhạc dân tộc lao đao rồi tan rã, nhạc công theo nhau giải nghệ, nhạc sĩ lo kiếm sống không còn thời gian và tâm lực dành cho khí nhạc chuyên nghiệp, tác phẩm thể loại lớn như giao hưởng và opera không đâu đầu tư kinh phí dàn dựng. Tình cảnh ảm đạm này còn kéo dài đến những năm cuối thế kỷ XX mới bắt đầu hé lên chút hi vọng về sự hồi sinh.

Với nhạc cổ truyền sự thể còn ảm đạm hơn nhiều. Ở thời điểm thống nhất đất nước nếu nhạc giao hưởng thính phòng vẫn đang bừng bừng khí thế thì nhạc cổ đã rơi vào tình trạng tổn thất nặng nề vì môi trường diễn xướng đã mất dần từ những năm 40 thế kỷ XX. Nhiều loại hình cổ truyền bị lãng quên không những do điều kiện chiến tranh liên tiếp, mà còn vì bị coi là sản phẩm của chế độ cũ, lạc hậu, đồi trụy, mê tín dị đoan. Nhiều người không dám nhận mình là nghệ nhân đàn ca nhạc cổ. Các nhà sưu tầm nghiên cứu chỉ ghi âm rồi phân tích đơn thuần giai điệu dân ca, không để tâm đến không gian thực hành và bỏ qua nhiều yếu tố liên quan đến lịch sử cội nguồn. Cứ thế, sự thiếu hiểu biết trong ứng xử với tài sản tổ tiên còn kéo dài suốt những thập niên cuối thế kỷ trước. Tổng cộng hơn nửa thế kỷ đứt gánh khiến vốn cổ rơi nguy cơ thất truyền là cái giá chúng ta phải trả.

Còn một sự trả giá không nhỏ trong bảo tồn do lẫn lộn khái niệm giữa nhạc cổ với nhạc mới, giữa “cổ truyền” với “dân tộc”. Suốt mấy thập niên “dân tộc” đã thay thế “cổ truyền”. Những sáng tác mới cho nhạc cụ dân tộc hoặc sử dụng chất liệu dân ca nhạc cổ với danh nghĩa “nhạc dân tộc” đã nghiễm nhiên thường xuyên chiếm chỗ nhạc cổ truyền trong sinh hoạt ca nhạc, rồi chính thức mang danh nhạc cổ. Đến lúc sửa sai thì lại nhảy từ thái cực này sang thái cực nọ: nhạc cải biên bị quy tội giả danh vốn cổ và gần như bị xóa sổ cùng bao công sức gây dựng dàn nhạc dân tộc và nhiều thử nghiệm sáng tạo cho nhạc khí dân tộc.

Sự nhầm lẫn cách hiểu giữa “phát huy” (thuộc phạm trù nhạc cổ) với “phát triển” (thuộc phạm trù nhạc mới) cũng dẫn đến những cách làm đáng tiếc. Thay vì phát huy theo nguyên tắc cổ truyền, thì ta lại ra sức phát triển vốn cổ theo chiều hướng phá vỡ những giá trị đặc trưng của vẻ đẹp nguyên gốc.

Một sự chuyển đổi vô cùng quan trọng trong lĩnh vực lý luận âm nhạc đã kịp thời níu giữ những gì còn sót lại của nhạc cổ truyền: đó là sự xuất hiện và mau chóng được củng cố của chuyên ngành dân tộc nhạc học (ethnomusicology) vào cuối những năm 90. Nhận thức được sai lầm trong hành xử với nhạc cổ, giới lý luận âm nhạc bắt đầu điều chỉnh việc sưu tầm nghiên cứu theo chuẩn quốc tế với hai phương thức song song tồn tại và không thể thay thế nhau: bảo tồn có phát huy và kế thừa để phát triển. Theo đó, nhạc cải biên nói trên được xếp vào kế thừa - phát triển, chứ không thể đại diện cho nhạc cổ, bởi vậy nó cần được ghi nhận, coi trọng và tiếp tục đầu tư như một trong những thành tựu của nhạc mới.

Sau nhiều thập niên suy xét giá trị nghệ thuật nhạc cổ theo quan điểm chính trị cứng nhắc và thiển cận, việc vớt vát lại những mảnh ghép quá khứ gặp rất nhiều khó khăn. Muộn còn hơn không, vẫn còn đó những “báu vật quốc gia”: những nghệ nhân âm thầm gìn giữ câu ca ngón đàn và những ký ức quý giá về di sản âm nhạc của tổ tiên.

Hơn 10 năm cuối thế kỷ có điều kiện tiếp cận thế giới bên ngoài, giới nhạc cùng các nhà quản lý văn hóa nghệ thuật đã gắng gỏi vượt qua những lúng túng trong quá trình chuyển đổi cả về nhận thức và thực tiễn, làm quen dần với xu thế chung, đặc biệt là tiếp cận kỹ thuật công nghệ thông tin, tạo bước đệm cho sự hòa nhập thế giới đầu thế kỷ XXI.  

(Còn nữa)

Xem phần 2 tại đây: https://hoinhacsi.vn/news/am-nhac-viet-nam-50-nam-mot-goc-nhin-phan-2 

Chia sẻ:
facebook share
instagram share instagram share

Xem nhiều