ÂM NHẠC VIỆT NAM: 50 NĂM - MỘT GÓC NHÌN (phần 2)

07:00 AM, Thứ sáu, 12/09/2025
140

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Châu

 

(Tiếp theo)

25 năm đầu thế kỷ XXI

Đây là thời kỳ thực sự chuyển mình để hướng tới tính đa dạng trong sáng tạo nghệ thuật và thưởng thức âm nhạc thông qua các nguồn: phục hồi những giá trị cũ mai một, phát triển những cái đang thịnh hành, đón nhận những cái mới từ thế giới bên ngoài.

Nhạc cổ

Nhận thức được vốn cổ là cội nguồn cho bản sắc dân tộc, Nhà nước đã có những chính sách mới và động thái tích cực: tổ chức liên tiếp các cuộc liên hoan, hội nghị, hội thảo quốc gia và quốc tế về nhạc cổ; huy động các nhà khoa học tiến hành kiểm kê tài sản, đề xuất chuyển đổi chức năng sử dụng và truyền dạy; tiến hành các dự án lập hồ sơ di sản quốc gia và di sản nhân loại... 

Sự chuyển đổi về nhận thức trong bảo tồn vốn cổ là cơ sở hòa nhập thế giới, giúp ta chứng minh một cách thuyết phục giá trị văn hóa nghệ thuật, cách thức trình diễn, phương pháp truyền dạy và sức sống của các loại hình nhạc cổ trong đời sống đương đại. Trong vòng chưa tới hai chục năm, Việt Nam đã được UNESCO phê duyệt hồ sơ, tôn vinh 10 loại hình nhạc cổ là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại: Nhã nhạc cung đình Huế (2003), không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (2005), quan họ Bắc Ninh (2009), ca trù (2009), hát xoan Phú Thọ (2011), đờn ca tài tử Nam bộ (2011), dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh (2014), bài chòi Trung b (2017), hát then vùng núi phía Bắc (2019), nghệ thuật Xòe Thái (2021). Danh sách này chắc chắn còn được bổ sung nếu ta thực hiện đúng cách trong công tác bảo tồn và quảng bá các loại hình nhạc cổ khác.

Thế nào là đúng cách, là hợp lý hợp tình để bảo vệ những giá trị vĩnh hằng của vốn cổ trong thời đại mới? Thực tế không hề dễ dàng, bởi vẫn có những cách nghĩ và cách làm khác nhau giữa các nhà quản lý với giới nhạc, thậm chí giữa các nhà lý luận âm nhạc với nhau. Những bất đồng có thể dẫn đến những bất ổn và bất cập trong hiệu quả thực hành. Thôi thì cứ mạnh ai nấy làm! Thoạt nhìn có vẻ trăm hoa đua nở trong quá trình chuyển đổi chức năng sử dụng vốn cổ, góp thêm vẻ đa dạng cho sinh hoạt ca nhạc. Song hồn cốt cổ truyền đang phai dần khi nhiều hình thức nghệ thuật trình diễn trong thực hành tín ngưỡng, lễ hội hoặc lao động luôn bị bứt ra khỏi không gian đặc thù để đưa lên sân khấu và tới các tụ điểm du lịch một cách bất cẩn. Vẻ đẹp độc đáo ngàn đời đang biến dạng trong những cố gắng hiện đại hóa cách thức trình diễn nhằm đáp ứng mục tiêu thương mại. Loại hình dân ca cổ xưa nhất từ thời Hùng Vương là xoan được ép duyên với chèo để đẻ ra sản phẩm đột biến gene có tên là “xoan mới”. Dàn nhạc cung đình Huế không ít lần được làm mới theo kiểu “giao hưởng hóa” và “nhạc nhẹ hóa”. Dàn cồng chiêng Tây Nguyên được khuếch trương lên tới hàng trăm người… Những hiện tượng tương tự thế cũng diễn ra với các loại hình nhạc cổ khác.

Rất nhiều thách thức trong bảo tồn vốn cổ, kể cả các loại hình đã được ghi danh di sản nhân loại hoặc quốc gia. Rất nhiều nỗi lo trong hiện trạng quá thiếu vắng đội ngũ nghiên cứu dân tộc nhạc học, thiếu các chuyên gia không những am hiểu sâu sắc về giá trị nghệ thuật nhạc cổ, mà còn đủ kinh nghiệm thực tiễn và tri thức khoa học về công tác bảo tồn - phát huy thông qua truyền dạy, giáo dục, quảng bá di sản.

Nhạc mới

Trước hết phải dành lời cho loại hình mang trọng trách đại diện cho nhạc mới Việt Nam trên diễn đàn quốc tế, đó là khí nhạc. Nổi bật ở giai đoạn này là tính đa dạng và xu hướng hội nhập thế giới về mọi mặt: sáng tác, biểu diễn, nghiên cứu và đào tạo. Sự hợp tác quốc tế mở rộng chưa từng có. Nghệ sĩ, nhạc sĩ và tác phẩm nội xuất ngoại, cũng như ngoại nhập nội không còn hiếm hoi. Đào tạo chuyên nghiệp được ghi nhận bằng các giải thưởng quốc tế của thế hệ trẻ. Các cuộc Liên hoan Âm nhạc mới Á - Âu đã góp phần ghi danh khí nhạc Việt Nam trên bản đồ âm nhạc chuyên nghiệp thế giới. Từ hai chục năm nay Viện Âm nhạc - tổ chức nghiên cứu âm nhạc lớn nhất Việt Nam đã là thành viên chính thức của Hội đồng Âm nhạc truyền thống quốc tế (ICTM), đã xuất bản nhiều ấn phẩm chuyên khảo nghiên cứu có giá trị lịch sử và khoa học.

Tinh thần hội nhập quốc tế là chất xúc tác cho sự phát triển đa dạng của khí nhạc, cũng như nhạc mới nói chung. Mặc dù các thể loại nhỏ gọn phù hợp xu thế thời đại được lựa chọn nhiều hơn, thì vẫn có sự đầu tư sáng tạo trong thể loại lớn. Cùng với sự trở lại của nhạc kịch (opera) quy mô và học thuật là hàng loạt kịch hát giải trí nhẹ nhàng (theo phong cách Broadway) dễ tiếp cận công chúng hơn.

Ngôn ngữ biểu hiện không còn chỉ giới hạn trong khuôn khổ giao hưởng thính phòng cổ điển, mà mở rộng tìm tòi theo các xu hướng nhạc hiện đại, nhạc điện tử, nhạc đương đại, nhạc thể nghiệm... Bên cạnh việc tiếp nhận phương thức biểu hiện của nhạc cổ điển thế giới và kế thừa hồn cốt Việt trong nhạc cổ truyền kết hợp với tư duy hiện đại, một số nhà soạn nhạc trẻ còn sử dụng kỹ thuật sáng tác và trình diễn phi truyền thống, pha trộn âm sắc nhạc cụ với âm thanh điện tử và cả tiếng động đơn thuần, tự do phá cách và ngẫu hứng trong không gian mở, kết hợp âm nhạc với hiệu ứng hình ảnh, ngôn ngữ hình thể và nghệ thuật sắp đặt…

Càng phá cách, càng rời xa truyền thống, càng kén người nghe. Không riêng nhạc đương đại và nhạc thể nghiệm quá ít khán giả, mà cả khí nhạc trong khuôn khổ truyền thống vẫn chỉ dành cho giới chuyên môn và thính giả có gu thưởng thức cao. Khí nhạc chưa thể có vị thế xứng đáng trong đời sống văn hóa nghệ thuật, bởi còn tồn đọng nhiều bài toán chưa được giới nhạc chuyên nghiệp và các nhà quản lý thực sự lưu tâm giải đáp.

Liệu chúng ta có dám đầu tư thích đáng để khích lệ sáng tạo và dàn dựng tác phẩm khí nhạc chuyên nghiệp? Vì đâu mà chất lượng biểu diễn ở ta dù đã nâng cao vẫn chưa thoát khỏi nguy cơ tụt hạng trước tốc độ tiến bộ quá nhanh của các nước châu Á? Làm sao để âm nhạc Việt Nam phát triển cân đối giữa khí nhạc với thanh nhạc, cũng như giữa ca khúc nghệ thuật với ca khúc phổ thông, giữa tác phẩm chính thống với ca nhạc giải trí? Lại lần nữa những “câu hỏi treo” về hiện trạng mất cân đối cho thấy lý luận phê bình âm nhạc chuyên nghiệp chưa thực sự nhập cuộc hoặc chưa có điều kiện thể hiện vai trò tham mưu cho các nhà quản lý.

Những điều đáng băn khoăn còn nhiều hơn trong lĩnh vực nhạc giải trí là nơi các cây bút báo chí gần như hoàn toàn thay thế phê bình âm nhạc chuyên nghiệp. Nói theo góc độ chủ quan, giới chuyên môn gần như tình nguyện đứng ngoài cuộc, còn nhìn từ góc độ khách quan thì rõ ràng họ bị gạt ra ngoài lề thị trường âm nhạc.

Với giới truyền thông và công chúng, thể loại ca khúc phổ thông được coi là đại diện duy nhất của nhạc mới với danh xưng “nhạc Việt”. Không ít bài hát sinh ra từ các cuộc thi ca khúc theo chủ đề hay các phong trào vận động sáng tác theo định hướng. Song những ca khúc theo con đường chính thống kiểu đó, kể cả những bài đoạt giải chưa chắc được công chúng biết đến và rất khó đi vào đời sống xã hội. Dường như công chúng, nhất là giới trẻ có cách lựa chọn khác. Họ đón nhận nhạc thịnh hành với những “hit, hot” liên tiếp thay nhau chiếm lĩnh các bảng xếp hạng tạo nên dòng chảy không ngừng của thị trường ca nhạc.

Có thể thấy gì ở thị trường ca nhạc có vẻ đa dạng này?

Tốc độ phủ sóng internet và công nghệ thông tin luôn cập nhật cho nhạc nội những hình mẫu từ thế giới bên ngoài, đưa các sản phẩm nhạc nội đến gần nhạc ngoại thông qua các yếu tố toàn cầu. Đáp ứng nhu cầu thưởng thức của giới trẻ, không ít bản sao rập khuôn từ giai điệu đến ngoại hình và vũ đạo của ca nhạc ngoại quốc, đặc biệt là K-pop. Chỉ mấy năm gần đây bắt đầu có vài MV chuyển hướng sử dụng yếu tố dân gian Việt Nam đã gây ấn tượng không nhỏ cho công chúng trẻ.

Từ pop-rock, giới trẻ nhanh chóng bắt nhịp với R&B, ballad, jaz, hiphop, rap, acounstic…; tiếp đến indie, meanstream, underground… Công nghệ đã thay đổi cách làm nhạc và nghe nhạc, từ analog sang digital, từ CD sang nhạc số (chuyển tải bằng định dạng MP3 hoặc WAV), rồi tới streaming (trực tuyến). Cách quảng bá và thưởng thức sản phẩm âm nhạc không còn giới hạn ở các phương tiện phát thanh truyền hình, mà thêm nhiều lựa chọn đến choáng ngợp trên các nền tảng số, từ miễn phí: YouTube, Zing MP3, Nhaccuatui… đến doanh thu: Spotify, Apple Music

Sự phát triển công nghệ và truyền thông số tạo điều kiện cho nhạc sĩ và ca sĩ tự quảng bá sản phẩm, kiếm tiền trực tuyến không qua hệ thống phân phối truyền thống. Hình mẫu tổng hợp ca nhạc sĩ tự tung tự tác khá phổ biến trong quy trình độc lập: tự trình bày sáng tác của mình, tự sản xuất và phát hành chương trình hoặc MV, tự quảng cáo sản phẩm qua tương tác trực tiếp với đối tượng thưởng thức trên các nền tảng mạng xã hội (Youtube, Facebook, Tiktok) hoặc các cuộc họp mặt ngoại tuyến với fan-group. Vai trò mạng xã hội trở nên quan trọng trong sinh hoạt ca nhạc. Không chỉ các idol ảnh hưởng đến thị hiếu giới trẻ, mà cộng đồng mạng cũng có thể chi phối sự nghiệp của những người nổi tiếng, biến nghệ sĩ từ vô danh bỗng chốc trở thành hiện tượng và ngược lại. Các nhóm fan hoặc anti-fan tác động nhiều chiều cả tích cực lẫn tiêu cực đến các thần tượng của họ.

Hoạt động âm nhạc khởi sắc hơn còn nhờ sự có mặt của các tập đoàn tư nhân và các công ty giải trí tư nhân trong đào tạo và quản lý ca nhạc sĩ, trong sản xuất chương trình và quảng bá sản phẩm ca nhạc. Không chỉ trên các nền tảng số và sân khấu liveshow có được sự sôi động, các chương trình truyền hình thực tế về âm nhạc cũng thu hút đông đảo người xem, khuấy đảo nhất là mấy chương trình dài kỳ “anh trai”, “chị đẹp” gần đây. Trước sự cổ vũ cuồng nhiệt của công chúng, các nhà sản xuất liên tiếp tổ chức sự kiện với hàng loạt live concert “ăn theo” chương trình.

Môi trường và điều kiện làm nhạc nghe nhạc rộng mở giúp đời sống âm nhạc phong phú chưa từng thấy, nhưng cũng nảy sinh lắm hiện tượng gây tranh cãi liên quan đến đạo đức nghề nghiệp và giá trị sản phẩm. Ca sĩ hát nhép để che bớt khiếm khuyết giọng hát, dùng trang phục gây sốc để thu hút người xem, dựng scandal để quảng bá tên tuổi. Nhạc sĩ lạm dụng công nghệ điện tử, dựa vào hòa âm bản beat có sẵn để viết giai điệu, sao chép ý tưởng hoặc đạo nhạc của người khác, vi phạm bản quyền cả nhạc nội lẫn nhạc ngoại ngày càng tinh vi hơn. Các tiktoker lan truyền âm nhạc theo kiểu cắt xén, thậm chí chế lại lời với nội dung nhảm nhí, làm mất đi tính vẹn toàn và giảm giá trị nghệ thuật của tác phẩm. AI bắt đầu được sử dụng như một công cụ sáng tạo trong khi chưa có luật bản quyền về trí tuệ nhân tạo, nên khó tránh khỏi những chiêu trò gian lận như dùng sản phẩm AI dự thi sáng tác ca khúc.

Tất cả những điều kể trên, từ những hiện tượng mang tính tự phát ở thế hệ trẻ, cũng như những hoạt động có tổ chức nhằm xã hội hóa âm nhạc đến các mặt trái trong sinh hoạt ca nhạc đều được bàn luận sôi nổi trên mạng, song gần như chẳng liên quan gì đến giới lý luận âm nhạc chuyên nghiệp. Có thể vì nhạc đại chúng không thuộc mối quan tâm của các nhà chuyên môn, cũng có thể vì ở mảng này chẳng ai cần đến họ, đến cách nhìn nặng về học thuật hoàn toàn xa lạ với công chúng. Khoảng cách giữa nhạc giải trí với lý luận âm nhạc chuyên nghiệp quá lớn, quá khó để vượt qua.

Thực tế vẫn có những cảnh báo về chất lượng nghệ thuật và bản lĩnh sáng tạo từ các nhà chuyên môn, nhưng vài tiếng nói đơn lẻ còn xa mới đạt được hiệu quả mong muốn. Kể cả khi lý luận phê bình âm nhạc chuyên nghiệp vào cuộc cũng chưa chắc làm nên chuyện nếu như thiếu sự liên kết chặt chẽ với các lĩnh vực liên quan: báo chí truyền thông, công nghệ IT, giáo dục phổ thông… Có được bản lĩnh nghề nghiệp và chất lượng nghệ thuật hay không còn tùy thuộc vào quá trình giáo dục đào tạo và mặt bằng dân trí, vào môi trường văn hóa hướng thiện và nhân văn. Còn nữa, để cân bằng giữa quyền tự do sáng tạo (chủ thể) và môi trường sáng tạo (khách quan), giữa bản lĩnh làm nghề (cái tôi) và thị hiếu đại chúng (cái chung), giữa giá trị nghệ thuật và mục tiêu kinh doanh chắc chắn không thể thiếu sự hợp tác thiện chí giữa những người hoạt động âm nhạc với các doanh nghiệp ngành giải trí.

Đã nói đến sự liên kết làm nên sức mạnh tổng lực thì vai trò quyết định cuối cùng vẫn nằm trong tay các nhà chức trách. Sự tương tác giữa các chuyên ngành, trong đó có lý luận phê bình trong công cuộc phát triển âm nhạc Việt Nam thời đại mới có hiệu quả đến đâu còn phụ thuộc vào tài quản lý và chính sách văn hóa nghệ thuật, vào tầm nhìn và cái tâm của những người đứng mũi chịu sào lái con thuyền mang tên đất nước hướng tới tương lai.

12-2-2025

Xem phần 1 tại đây https://hoinhacsi.vn/news/am-nhac-viet-nam-50-nam-mot-goc-nhin-phan-1 

Chia sẻ:
facebook share
instagram share instagram share

Xem nhiều