TA LÀ AI? HÀNH TRÌNH ĐI TÌM CHÍNH MÌNH (phần 1)

07:00 AM, Thứ năm, 31/07/2025
55

Tác giả: Phạm Minh Hương

 

 

Dẫn nhập                                                                                                                                                                                                                   

Ý tưởng cũng như tham vọng ban đầu của tôi đối với bài viết này là sẽ tìm hiểu, nghiên cứu để có những đánh giá khoa học, mang tính chủ quan của một người ngoài cuộc về loại hình âm nhạc thể nghiệm mới thông qua việc nghiền ngẫm, phân tích các tác phẩm của một nhạc sĩ đại diện cho dòng nhạc này. Nhưng để làm được điều đó thật sự cần thời gian, công sức tìm tòi, tích lũy kiến thức nhiều hơn tôi tưởng, và có lẽ quan trọng hơn cả là rất cần một sự yêu thích thật sự để say mê và thẩm thấu. Thú thật, ở thời điểm này, tất cả những yêu cầu đó tôi đều chưa đủ. Vậy, đành xin gác lại để tiệm cận dần với những tham vọng đó, xây dựng một tình yêu, một lượng tri thức nhất định về âm nhạc thể nghiệm đương đại cho những sản phẩm tiếp theo. Với vốn liếng hiện có, bài viết này chỉ là những câu chuyện xoay quanh công việc sáng tạo trong cuộc hành trình đi tìm TA LÀ AI? của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc qua lời bộc bạch của chính tác giả và cảm nhận cá nhân của người viết. Đây cũng là một cuộc hành trình trải nghiệm, tiếp cận với những khái niệm “còn chưa biết” và các sản phẩm âm nhạc thể nghiệm Việt Nam của người viết, và có thể của cả những người chưa biết nhiều về thể loại nhạc này như tôi.

Nhân vật chính 

Trần Kim Ngọc là một trong những gương mặt nhạc sĩ tiêu biểu, thuộc thế hệ đời đầu, đặt những bước chân đầu tiên trong địa hạt âm nhạc thể nghiệm mới ở Việt Nam. Bền bỉ, đam mê, tâm huyết là điều mà Kim Ngọc luôn dành cho dòng nhạc này. Đối với nữ nhạc sĩ, hành trình đi tìm “TA LÀ AI?” là một cuộc chơi của sự sáng tạo không ngừng nghỉ, được đánh dấu bởi hàng loạt các sản phẩm nghệ thuật thể nghiệm đầy ấn tượng. Đồng hành cùng nữ nhạc sĩ nhìn lại những chặng đường làm nghề đã qua để hiểu hơn về một cuộc chơi “rất đỗi công phu” của người nghệ sĩ thể nghiệm và về một dòng nhạc không dễ tiếp cận và cũng ít có cơ hội tiếp cận như âm nhạc thể nghiệm mới ở Việt Nam hiện nay.

 

TA LÀ AI?

KHỞI NGUỒN

Một ngày đầu năm 1975, một sinh linh bé nhỏ với đôi mắt sáng “hơn sao trời” chào đời trong sự vui mừng tột cùng của người cha - một nhạc sĩ tài hoa và người mẹ - một cán bộ tại trường Đại học Văn hóa. Trong căn nhà nhỏ xinh, ấm cúng, Kim Ngọc được lớn lên trong tình yêu thương vô bờ bến, sự chiều chuộng “cực phẩm” đến mức gần như không giới hạn của cha mẹ. Có lẽ nhờ môi trường nuôi dưỡng đó mà những nét cá tính mạnh mẽ, sự tự do trong tư duy, hành động của Kim Ngọc đã có cơ hội thỏa sức phát triển ngay từ khi còn nhỏ. Cũng như nhiều đứa trẻ khác thời bấy giờ, thậm chí cả thời nay, “sự nghiệp” học hành buổi ban đầu đều do người cha định hướng. May mắn thay cha của nữ nhạc sĩ là một nhà giáo dục “lỗi lạc” bẩm sinh như Kim Ngọc tự hào chia sẻ - “Dạy mà như không dạy”. Tâm lý, mềm mỏng, tôn trọng, lắng nghe, đối thoại, điều chỉnh là cách ông thực hiện để tiếp cận, uốn nắn và định hướng thành công cô con gái đầy cá tính, nhạy cảm, khó kiểm soát của mình. Bởi vậy, mặc dù “khảng khái” chỉ tay chọn cây đàn violon, nhưng cuối cùng Kim Ngọc vẫn khởi đầu con đường gắn với nghiệp âm nhạc bằng cây đàn piano theo lời khuyên của cha. Để rồi sau đó, lại cũng theo đề nghị nhẹ nhàng của cha sau khi nhận thấy con gái không còn được vui vẻ bởi quá nhiều áp lực từ việc học đàn piano và qua mấy phép thử “tay nghề” một cách tự nhiên, Kim Ngọc chuyển sang học sáng tác âm nhạc, chính thức bước vào sự nghiệp đam mê của đời mình.

Môi trường học nhạc của chúng tôi có truyền thống là vậy, hầu như toàn “con nhà nòi”, cha truyền con nối, mỗi thế hệ thường bao giờ cũng có tối thiểu một người nối tiếp theo nghề. Mặc dù tự cho là mình không giống cha, không được nho nhã, điềm đạm, mực thước, cẩn trọng, lý trí mà rất đỗi tình cảm như cha, nhưng trên thực tế Kim Ngọc chịu ảnh hưởng không nhỏ từ người cha, từ những gợi ý cụ thể về ý tưởng, những hướng dẫn về kỹ thuật sáng tác… cho đến những thứ lớn lao hơn - chính là định hướng trong sáng tác và môi trường văn hóa sinh dưỡng - điều mà sau này có thể thấy khá rõ trong các sáng tạo của nữ nhạc sĩ. Như Kim Ngọc thừa nhận: “Trong âm nhạc, bố tôi rất có định hướng, mà định hướng rất là sớm, từ khi tôi bắt đầu sáng tác chứ không phải đến sau này. Bố tôi làm rất tự nhiên, tôi không biết đấy là định hướng, nên tôi chẳng có phản ứng gì cả, tôi không hề cảm thấy đang bị ai áp đặt, không hề cảm thấy cái “tôi” của mình bị thách thức, mà nó có một không gian đầy đủ để phát triển, nhưng không phải là tự do vô lối. Bố tôi rất giỏi ở chỗ đó. Tôi luôn cảm thấy rất may mắn vì mình được đầy đủ, vừa được tự do vừa được yêu thương”.

Có lợi thế là “con nhà nòi”, lại chuẩn “dòng sáng tác”, từ khi sinh ra, Kim Ngọc đã sống trong môi trường âm nhạc của cha - nhạc sĩ Trần Ngọc Xương, với những tác phẩm của cha, những bản nhạc mà cha nghe; theo cha đi dựng tác phẩm… Đó là những hạt dinh dưỡng góp phần tạo nên môi sinh văn hóa gốc của nữ nhạc sĩ. Cha cũng là người đầu tiên gieo hạt mầm “truyền thống” trong tư duy sáng tạo của Kim Ngọc. “Cái concept về việc sử dụng vốn cổ của người Việt Nam thực ra bố tôi là người đầu tiên đưa tôi vào chứ không phải sau này là anh Bùi Trọng Hiền hay là ai trong trường nhạc đâu, hay thầy Trần Trọng Hùng đâu…”.

Nếu như nhận được từ cha nguồn dinh dưỡng văn hóa, thì sở thích hướng ngoại, sự quyết liệt, sẵn sàng thể hiện mình là những điều Kim Ngọc được thừa hưởng từ mẹ - một người phụ nữ nhỏ nhắn nhưng sở hữu bên trong một nguồn năng lượng dồi dào, sự mạnh mẽ của một người phải giữ vị trí “nóc nhà”; sự chu đáo, cẩn thận của một người đóng vai trò quán xuyến mọi việc trong nhà. Điểm này có thể nhận thấy trong các hoạt động nghệ thuật và đường hướng thực thi sáng tạo các tác phẩm của nữ nhạc sĩ.  

HÀNH TRANG

Bước vào cuộc hành trình, nữ nhạc sĩ mang theo mình một hành trang ban đầu cũng kha khá. Ngoài vốn văn hóa nội sinh, là một nền tảng kiến thức được đào tạo bài bản tại Nhạc viện Hà Nội - một môi trường giáo dục âm nhạc chuyên nghiệp hàng đầu Việt Nam. Một lần nữa sự may mắn lại mỉm cười với Kim Ngọc khi tại đây nữ nhạc sĩ được học với người thầy luôn cổ súy, tạo điều kiện cho cái “tôi” của học trò phát triển. Không khuôn mẫu, chỉ gợi ý, giới thiệu, định hướng là cách mà nhạc sĩ Trần Trọng Hùng - người thầy dạy sáng tác của Kim Ngọc - hướng dẫn cho học trò. Thầy Hùng là người thứ hai, sau cha của nữ nhạc sĩ, nhấn mạnh với Kim Ngọc về sự cần thiết của việc khai thác, đưa “vốn cổ” vào trong các sáng tác. Đây cũng là thời điểm Kim Ngọc được thầy giới thiệu cho tiếp cận với tác phẩm của những nhà soạn nhạc phương Tây có khuynh hướng khai thác yếu tố dân gian truyền thống như Bela Bartok, Debussy… và đã học được không ít điều từ những tác gia đó, chẳng hạn như hệ thống nhịp lẻ, sự thay đổi liên tục các loại nhịp trong tác phẩm của Bela Bartok.

Từ vốn hành trang ban đầu, Kim Ngọc đã tiếp tục xây đắp thêm vốn tri thức, năng lực tư duy của mình bằng chuyến đi học tại Cologne College of Music (Đức) từ năm 2001-2004. Có thể nói đây là một bước ngoặt trong cuộc đời, trong nhận thức và tư duy của nữ nhạc sĩ.  Như Kim Ngọc đã chia sẻ: “Ở Đức, ngoài kiến thức học ở trường, cái thu nhận lớn nhất tôi đạt được, là nhận thức”. “Bị bứt cái rễ ra khỏi mảnh đất nơi mình lớn lên, ra khỏi môi trường sinh ra, lớn khôn, cuộc sống sinh hoạt quen thuộc” chuyển sang “độc hành” trong một môi trường văn hóa khác biệt, nữ nhạc sĩ đã trải qua một cuộc đại khủng hoảng của sự xung đột văn hóa, nhưng vì thế lại tạo ra “những năng lượng sinh tồn tích cực” buộc tự bản thân phải “thay máu”, tái tạo lại. Ý thức, nhu cầu đi tìm và xác định “ta là ai?” có lẽ được hình thành từ lúc này. Việc mỗi ngày đều bị hỏi đến từ đâu? làm cho Kim Ngọc hàng ngày đều phải xác nhận lại danh tính của bản thân bằng những câu hỏi tự đặt ra: “Mình là ai? Mình có khác biệt như thế nào? Cá tính của mình là gì?”. 

Cũng chính việc tiếp xúc với một nền văn hóa, một lối tư duy và một phong cách âm nhạc khác biệt - chặt chẽ, lý tính, trật tự, đậm tính cá nhân đặc trưng của người Đức đã khiến Kim Ngọc nhìn thấy rõ hơn, lý giải được sự mâu thuẫn trong bản thân mình trước đây, đó là sự xung đột giữa bản chất văn hóa tự thân là văn hóa Việt Nam và loại hình âm nhạc được học thuộc văn hóa phương Tây, giữa tư duy văn hóa thiên về cảm tính với tư duy văn hóa nặng về lý tính, để từ đó, nhận ra rằng mình cần gì? “Cái tôi” trong con người nữ nhạc sĩ luôn đòi hỏi một không gian hỗ trợ cho sự phát triển tính cá nhân - điều mà văn hóa và phương cách giáo dục của Việt Nam không thể, nhưng môi trường văn hóa và âm nhạc Đức lại có thể. “Đôi khi nó chỉ là việc chả ai quan tâm đến mình. Mình phải tự sống, thích học gì thì tự tìm lớp, tự học, tự tìm hiểu, tự vào thư viện xem, nghe, đọc. Không có ai cầm tay chỉ ngón cho mình. Cách học này giúp mình kích thích tư duy phản biện”.

Chủ động tự học, tự trang bị những kiến thức, kỹ năng mình thích, hay cần thiết là một thói quen làm việc của Kim Ngọc, làm ngày một dày thêm hành trang của nữ nhạc sĩ. Bởi thế cùng với việc được đào tạo bài bản theo hệ thống bằng cấp chuyên nghiệp, hành trang của Kim Ngọc được tích lũy qua cả những khóa học ngắn về sáng tác và những kỹ năng liên quan đến âm nhạc đương đại với nhạc sĩ Tôn Thất Tiết, Nguyễn Thiên Đạo, Giáo sư Michael Denhoff thời vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường; hay những đợt học đàn tranh, học hát Chèo thời kỳ sau này trong cuộc hành trình đi tìm “cội rễ” của mình mà nữ nhạc sĩ gọi là “ký ức của tế bào”.

HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO

Hành trình sáng tạo của Kim Ngọc sớm bắt đầu ngay từ những ngày bước chân sang bộ môn sáng tác ở Nhạc viện Hà Nội. Một cuộc hành trình khá dài, cho đến nay đã được hơn 30 năm. Xuyên suốt cuộc hành trình đó lúc tỏ, khi mờ là một Kim Ngọc thích sự thách thức; thích những thứ không bằng phẳng, những thứ bão tố, sóng gió, vì ở đó sẽ thấy có một năng lượng tốt cho bản thân; thích đi bên trái, không cùng chiều bên phải với nhiều người khác; thích tư duy trái chiều; thích sự hào sảng, chủ nghĩa anh hùng cá nhân; một Kim Ngọc với quan niệm của riêng mình về căn nguyên, động cơ cho những sáng tạo nghệ thuật: “Nói chung là nghệ thuật đều bắt nguồn từ những câu hỏi, những thắc mắc của mình, hoặc từ những cái không yên ổn, không phải là sự thích thú mang tính chất giải trí, hay như người ta vẫn nói là đam mê. Thứ nhất nó là nghề của mình, thứ hai nó giống như một cứu cánh. Khi mình có sự mất cân bằng trong năng lượng thì mình sẽ tìm đến nghệ thuật như một cách mà người ta nói nôm na là giải tỏa. Nhưng ở đây dùng từ giải tỏa có thể dễ gây hiểu lầm vì nó không phải là một phản xạ sinh học. Chẳng hạn như mình có những cái ẩn ức, những cái suy nghĩ, cảm quan mà không tìm được lời giải. Đôi khi mình suy nghĩ nó cũng không ra nữa thì lúc đấy mình sẽ dùng đến nghệ thuật. Như bọn mình học từ bé, thì âm nhạc như một cánh tay nối dài. Khi những việc mà tay thật của mình không làm được thì mình sẽ dùng đến cái tay nối dài đó để xử lý cuộc đời mình và xử lý những vấn đề liên quan đến thế giới tinh thần, thế giới nội tâm nhiều hơn là thế giới vật chất. Đối với tôi, nghệ thuật nó là như thế... Mỗi sáng tác của tôi thường bắt đầu từ một cảm thức, nó vô hình nên tạo cho mình một động lực đi tìm để nắm được, để hiểu được một cái gì đấy mình chưa nắm được. Tôi không dùng đầu óc phân tích để sáng tác. Cách sáng tác và lý do sáng tác của tôi có tính trực giác, theo đuổi một vài cảm thức gì đấy. Đến khi tôi viết xong tác phẩm thì có vẻ như cái cảm thức đó có hình hài dưới dạng một ngôn ngữ nghệ thuật nhất định nào đó, có thể là một tác phẩm âm nhạc thuần túy, có thể là một tác phẩm đa phương tiện”.

Một xuất phát điểm sáng tạo nghệ thuật rất riêng, khác với điểm khởi nguồn cho một tác phẩm của nhiều nhạc sĩ khác thường từ một cảm xúc hay một ấn tượng ban đầu. Có lẽ vì thế nó đem đến cho người thưởng thức, hay ít ra là với riêng tôi một cảm giác về sự trăn trở trong các sáng tạo, đặc biệt là ở những tác phẩm thuộc giai đoạn sau này của Kim Ngọc.

Nhìn lại chặng đường sáng tạo của Kim Ngọc cho đến nay có thể thấy sự phân chia rất rõ thành hai giai đoạn, mà bản thân nữ nhạc sĩ cũng thừa nhận điều này, đó là:

Giai đoạn trước năm 2001;

Giai đoạn sau năm 2001, đặc biệt là sau khi đi học ở Đức. 

* Giai đoạn trước năm 2001 - nữ nhạc sĩ gọi là “thời mà tôi viết cho dàn nhạc”. Các tác phẩm của Kim Ngọc giai đoạn này chủ yếu chỉ được thể hiện thông qua âm thanh của các nhạc cụ. Điểm qua một số tác phẩm ra đời trong thời kỳ này như:

-  Journey No-1. (Prelude cho flute và piano, 1992);

-  Journey No-2 (viết cho piano gồm 5 phần, 1992);

- Journey No-3. (Trio cho violon, clarinette, piano, 1993);

- Phục Hn (Summon). (Hòa tấu viết cho 1 piccolo, 1 clarinette en B (clarinet bass), 1 violon, 1 violoncello, 2 bộ gõ, 1994);  

- Dậy thì  (Hòa tấu viết cho 1 hautbois, 1 clarinette en B, 1 cor en F, 2 violon, 1 violoncelle, 1 contrabass, 1995)

-  Thiếu nữ ngủ ngày (The siesta of a girl). (Trio flutes, 1996)

-  Four seasons (Hòa tấu bộ gõ, 1997)

- Chơi một mình (Play alone) (Tổ khúc cho đàn tranh, 1999)

- Cái eo lưng (The Waist) (viết cho dàn nhạc, 2000)

Đây là thời kỳ mà theo tác giả Kim Ngọc thì “ngôn ngữ biểu đạt chưa định hình, vẫn còn vay mượn ở đâu đó chỗ này một chút chỗ kia một chút… Ngôn ngữ lúc đó… đang ở giai đoạn vay mượn dùng tạm và đang phát triển một ngôn ngữ của cá nhân mình”. Tuy nhiên, thời kỳ này nữ nhạc sĩ đã manh nha những tìm tòi các phương thức chuyển tải ngoài âm nhạc. Trong môi trường quan hệ giao lưu rộng mở với giới văn học, giới làm sân khấu đương đại, múa đương đại, nên kể cả khi sáng tác nhạc, Kim Ngọc vẫn luôn có sự hình dung trong đầu về mặt thị giác các tác phẩm của mình. Đã có tưởng tượng là sẽ có thử nghiệm. Kim Ngọc là thế! “Khi tôi ngồi sáng tác cho dàn nhạc giao hưởng, tôi đã có hình dung là muốn nghệ sĩ chơi nét nhạc này phải ngồi thế này, nhóm violon 1 phải ngồi ở chỗ khác chứ không phải ngồi theo bộ của dàn nhạc giao hưởng… Nhưng hồi ấy tôi cũng chưa có hình dung về việc sắp xếp vị trí các nhạc cụ trong dàn nhạc đều có lý do của nó, đều phải xuất phát từ tính năng và âm sắc, âm lượng của các nhạc cụ… Mặc dù sau đó, khi sang Đức tôi mới biết có một thế hệ nhạc sĩ đã làm việc này, gọi là instrumental performance. Lúc đầu nó chưa là music theatre đâu mà là instrumental performance, họ cũng viết cho dàn nhạc nhưng họ có hẳn một kịch bản cho các nhạc công, họ vừa chơi nhạc vừa làm một cái gì đấy như một người trình diễn trên sân khấu. Đây là một trường phái nghệ thuật phát triển mạnh mẽ của Đức”.

Tác phẩm Cái eo lưng là sáng tác mà nữ nhạc sĩ muốn thử nghiệm việc đưa yếu tố thị giác vào trong việc trình diễn. Tác giả muốn đưa lên sân khấu một cái gương, muốn sắp xếp lại chỗ ngồi của các nhạc cụ trong dàn nhạc theo hình ảnh giống cái eo lưng. Nhưng đáng tiếc hồi đó những mong muốn thử nghiệm của Kim Ngọc chưa được chấp nhận bởi quan niệm và sự yêu cầu về thẩm mỹ âm thanh.

(Còn nữa)

Nguồn: t/c Nghiên cứu âm nhạc (Viện Âm nhạc)

Chia sẻ:
facebook share
instagram share instagram share