VCPMC chặn video nhạc cách mạng, lạm thu tác quyền?

Ngày 18/4, BH Media gửi công văn đến Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Bản quyền tác giả, Cục An ninh chính trị nội bộ (Bộ Công an) và nhiều cơ quan báo chí, cho rằng VCPMC đã có hành vi cản trở việc phổ biến các tác phẩm âm nhạc cách mạng trên nền tảng số.

 

Ảnh chụp Màn hình 2025 05 27 lúc 13.20.39.png

Bằng chứng VCPMC chặn "Đoàn vệ quốc quân". Ảnh: BHMedia cung cấp 

 

Công ty BH Media - đơn vị được Trung tâm Hãng phim Trẻ ủy quyền quản lý các video âm nhạc cách mạng - phát hiện VCPMC đã có hành vi cản trở việc phổ biến (chặn) các tác phẩm âm nhạc cách mạng, bao gồm: Vì nhân dân quên mình (tác giả Doãn Quang Khải), Bài ca thống nhất (Võ Văn Di), Hành khúc ngày và đêm (Phan Huỳnh Điểu và Bùi Công Minh) và Đoàn vệ quốc quân (tác giả Phan Huỳnh Điểu) thuộc album Bài ca người lính Vol2 do Trung tâm Hãng phim Trẻ đầu tư sản xuất trên các nền tảng trực tuyến.

Cụ thể, trên hệ thống quản lý nội dung của YouTube hiển thị rất rõ thông tin: VCPMC_CS (tức VCPMC) đã gắn quyền vào tác phẩm Đoàn vệ quốc quân và nhận 100% quyền Biểu diễn (PR - Performance Right) và 100% quyền Sao chép cơ khí (MR - Mechanical Right). Theo BH Media, điều này đồng nghĩa với việc YouTube đã trực tiếp trả tiền tác quyền cho VCPMC từ hệ thống.

BH Media cho rằng VCPMC đã “tận thu tác quyền”, bởi YouTube đã trả tiền tác quyền cho các video âm nhạc của Hãng phim Trẻ. Vì thế, BH Media yêu cầu VCPMC phải khôi phục toàn bộ các video đã bị chặn và xin lỗi công khai về hành vi vi phạm của mình.

Từ vụ chặn các ca khúc nói trên, BHMedia cho rằng, VCPMC đang thu tác quyền trái thông lệ quốc tế, tác động tiêu cực tới thị trường âm nhạc.

Đại diện BH Media khẳng định: "YouTube đã thiết kế một hệ thống quản lý nội dung (CMS) cho phép các bên như VCPMC xác nhận quyền trên từng video. Đồng thời YouTube chủ động phân phối tiền tác quyền cho từng video đã đăng. 

Các tổ chức, công ty quản lý quyền tác giả trên thế giới ký hợp đồng với YouTube tương tự VCPMC sẽ nhận tiền tác quyền từ YouTube thông qua CMS. Các tổ chức này sẽ không block (chặn) hay takedown (gỡ bỏ) video để gây sức ép, buộc chủ kênh phải đóng thêm tiền như cách VCPMC làm. Việc VCPMC đi "gõ" từng cá nhân để đòi thêm tiền tác quyền không chỉ trái quy định của nền tảng YouTube mà còn trái với quy định của pháp luật Việt Nam".

Theo điểm a, khoản 3, điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, các chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cấm các tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này. Ví dụ như sao chép video đăng lên YouTube chỉ nhằm mục đích phát video (truyền đạt tác phẩm) cho khán giả xem trên YouTube.

BH Media hiểu chưa đúng về hành vi sao chép

Trước thông tin từ BH Media, VCPMC đã có phản hồi gửi đến VietNamNet giải thích rằng, cách hiểu của BH Media chưa đúng khi cho rằng YouTube đã trực tiếp trả tiền tác quyền cho VCPMC.

Theo VCPMC, việc các quyền PR và MR hiển thị trong hệ thống CMS của YouTube chỉ đơn thuần là thông tin kỹ thuật hiển thị trên nền tảng, không phải "bằng chứng" chứng minh việc miễn trừ nghĩa vụ pháp lý.

Để đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật, nền tảng YouTube (chủ sở hữu là Công ty Google) đã tạo cơ chế phân chia tự động (theo tỷ lệ %) cho các loại quyền PR, MR tương ứng với việc sử dụng của nền tảng nhằm thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho tác giả/chủ sở hữu quyền tác giả của các tác phẩm được truyền đạt trên nền tảng YouTube. Hay nói cách khác, để được cấp phép sử dụng quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng.

Khoản tiền sử dụng quyền tác giả mà YouTube phân chia ở đây không bao gồm quyền sao chép để đồng bộ hóa (Sync rights) nhằm tạo ra bản ghi âm, ghi hình hoặc bản sao kỹ thuật số để thực hiện việc đăng tải, phát hành trên nền tảng YouTube. Quyền này do người đăng tải và sản xuất nội dung âm nhạc có nghĩa vụ phải thực hiện, bởi họ chính là đối tượng kinh doanh, khai thác nội dung âm nhạc, được hưởng lợi từ YouTube, kiếm tiền từ YouTube.

Việc sao chép tác phẩm để đăng tải, phát hành trên các nền tảng trực tuyến như YouTube, Facebook... không thuộc trường hợp "sao chép để thực hiện quyền khác", được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ. Thay vào đó, hành vi này được điều chỉnh bởi khoản 2 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ. Theo đó, người đăng tải và chủ sở hữu nền tảng là hai thực thể độc lập, sử dụng các quyền khác nhau và phải chịu các nghĩa vụ độc lập, riêng biệt về quyền tác giả.

Căn cứ theo các quy định của pháp luật và việc xác định đúng chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ về quyền tác giả tương ứng với hành vi sử dụng, khai thác tác phẩm âm nhạc, VCPMC (đại diện cho các chủ sở hữu quyền tác giả) khẳng định họ có quyền cấp phép, quyền sao chép để đồng bộ hóa đối với các nội dung video chuyên nghiệp do các công ty, đơn vị sản xuất nội dung tạo ra và đăng tải trên YouTube cũng như trên các nền tảng số.

Người đăng tải, chủ kênh (là cá nhân hoặc doanh nghiệp) có sử dụng tác phẩm âm nhạc khi kiếm tiền, kinh doanh trên YouTube thì họ trở thành đối tượng phải tự thực hiện nghĩa vụ của mình về quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, BH Media cũng là một trong các doanh nghiệp như vậy.

VCPMC khẳng định, việc đưa các tổ chức mà phạm vi quản lý của họ không có đầy đủ tất cả các loại quyền tài sản thuộc quyền tác giả để so sánh với VCPMC - vốn là tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả có uỷ quyền rõ ràng, đầy đủ - là việc đưa thông tin sai, gây nhầm lẫn.

Vì thế, VCPMC có 2 đơn khởi kiện: Khởi kiện BH Media ra tòa án về hành vi xâm phạm quyền tác giả, yêu cầu bồi thường thiệt hại (27 ca khúc thuộc thành viên VCPMC); Khởi kiện BH Media ra tòa án, yêu cầu BH Media phải cải chính thông tin, công khai xin lỗi vì đã phát ngôn sai sự thật, gây tổn hại đến hình ảnh và uy tín của VCPMC.

Về phía BH Media, đơn vị này cho biết chưa nhận được thông báo của toà án về đơn kiện của VCPMC nhưng nếu có sẽ sẵn sàng theo tới cùng.

Quyền sao chép tác phẩm trên nền tảng YouTube: Theo quy định của pháp luật, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện quyền sao chép tác phẩm, được quyền kiểm soát việc khai thác, sử dụng tác phẩm của mình, bao gồm cả việc tạo ra các bản sao kỹ thuật số của tác phẩm.

Việc các tổ chức, cá nhân sử dụng quyền sao chép tác phẩm để định hình và/hoặc tạo ra bản ghi âm, ghi hình (video) hay bản sao kỹ thuật số của tác phẩm nhằm mục đích thương mại thay vì sao chép vật lý như trước đây, được xem là hành vi sử dụng quyền sao chép tác phẩm (sao chép để đồng bộ hóa).

Các đơn vị sản xuất và cung cấp nội dung sử dụng quyền sao chép tác phẩm để tạo ra bản ghi âm, ghi hình nhằm đăng tải và phát hành trên các nền tảng trực tuyến, mạng xã hội. Thông qua các nền tảng này, công chúng, người nghe nhạc có thể tiếp cận tác phẩm âm nhạc, sản phẩm âm nhạc và từ đó mang lại doanh thu, lợi nhuận cho các nền tảng; đồng thời, theo đó các đơn vị cung cấp nội dung/người đăng tải/chủ kênh cũng được hưởng lợi theo cơ chế phân chia lợi ích của nền tảng.

Về nghĩa vụ của người sử dụng: Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, chủ thể thực hiện hành vi sao chép tác phẩm để định hình và/hoặc tạo ra các bản ghi âm, ghi hình/video để đăng tải, phát hành trên các nền tảng trực tuyến nhằm mục đích khai thác thương mại có nghĩa vụ phải xin phép sử dụng và trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả. Tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả căn cứ theo ủy quyền của tác giả và các hình thức sử dụng quyền sao chép mà đơn vị sử dụng thực hiện để tiến hành thỏa thuận, đàm phán, cấp phép và thu tiền bản quyền đối với việc sử dụng này.

Khoản 2 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ

Để được xem là "sao chép chỉ để thực hiện quyền khác" theo quy định, hành vi sao chép phải đáp ứng hai điều kiện:

(i) mục đích sao chép nhằm thực hiện một quyền khác - là điều kiện cần thiết, bắt buộc; (ii) đồng thời, chủ thể sao chép phải là người thực hiện "quyền khác" đó.

Đối chiếu với hành vi sao chép trực tuyến, trong trường hợp sao chép trực tuyến để khai thác thương mại trên các nền tảng như YouTube hay Facebook thì lúc này có sự tham gia của hai chủ thể pháp lý riêng biệt với hai hành vi sử dụng riêng biệt, đó là:

- "Người đăng tải" thực hiện quyền sao chép để tạo bản sao kỹ thuật số lưu trữ trên nền tảng.

- "Nền tảng trực tuyến" sử dụng quyền truyền đạt, cung cấp tác phẩm đến công chúng thông qua các phương tiện kỹ thuật của mình.