HÀ NỘI TRONG NHỮNG TÁC PHẨM “LỚN HƠN CA KHÚC” (Phần 2)

09:33 PM, Thứ năm, 17/08/2023
68

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Châu

 

Ảnh: Internet

(Tiếp theo)

 

Nhân vật thứ hai: người dựng “hồn vía” cho tác phẩm

Rất công bằng khi coi nghệ sĩ thổi hồn dựng vía cho tác phẩm là người sáng tạo thứ hai sau tác giả. Thế nên ta cần lướt qua vài mốc lý lịch trích ngang của nhân vật thứ hai này.

 

Cơ sở đào tạo âm nhạc đầu tiên ở Đông Dương là Pháp quốc Viễn Đông Âm nhạc viện (Conservatoire français d’Extrême-orient) do người Pháp tổ chức tại Hà Nội (1927-1930) đã cho “ra lò” lứa nhạc công đầu tiên, như Lưu Quang Duyệt (1900-1984), Nguyễn Xuân Khoát (1910-1994), Nguyễn Văn Giệp (1910-?), Phạm Huy Quỹ (1910), Phạm Huy Kỳ (1911-1998), Nguyễn Hữu Hiếu (1917-1965)...

 

Cùng với họ, một số nhạc công tự học hoặc xuất thân từ các lớp dạy đàn tư nhân cũng trở thành những gương mặt đáng chú ý trong sinh hoạt âm nhạc Hà thành với các hoạt động khác nhau - chủ yếu là chơi đàn và dạy nhạc: Phạm Đăng Hinh (1910-?), Lã Hữu Quỳnh (1911-1977), Đinh Ngọc Liên (1912-1991), Văn Chung (1914-1984), Lê Thương (1914-1996), Dương Thiệu Tước (1915-1995), Thẩm Oánh (1916-1996), Lê Yên (1917-1988), Doãn Mẫn (1919-2007), Nguyễn Thiện Tơ (1921)...

 

Ở thời tiền chiến và kháng chiến chống Pháp, người sáng tác và biểu diễn gần như là một. Chỉ từ nửa sau thập niên 50 mới thực sự hình thành đội ngũ biểu diễn chuyên nghiệp được đào tạo có bài bản cho quy mô lớn, gồm nhạc công giao hưởng, diễn viên hợp xướng, chỉ huy dàn nhạc, chỉ huy hợp xướng và nghệ sĩ độc tấu. Đa số thành phần này là “sản phẩm” của Trường Âm nhạc Việt Nam được thành lập năm 1956. Một số khác được tu nghiệp ở các nhạc viện Liên Xô, Trung Quốc và một số nước Đông Âu.

 

Chất lượng tăng dần cùng số lượng, đủ để gây dựng Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam năm 1959 và Dàn Hợp xướng năm 1961, rồi hai dàn nhập lại thành Nhà hát Giao hưởng - Hợp xướng - Nhạc vũ kịch Việt Nam năm 1963. Ít lâu sau còn có thêm Dàn nhạc Giao hưởng Hợp xướng Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam và Dàn nhạc Giao hưởng Xưởng phim truyện Việt Nam.

 

Thập niên 60 đầy ắp những sự kiện đáng nhớ trong đời sống âm nhạc Thủ đô, đặc biệt những buổi trình làng các giao hưởng, nhạc kịch và vũ kịch đầu tiên của Việt Nam. Giai đoạn chiến tranh nóng bỏng nhất cũng là lúc các nghệ sĩ đã làm nên kỳ tích cho bước khởi đầu của ngành biểu diễn nhạc giao hưởng thính phòng ở Thủ đô. Kỳ tích ấy còn được ghi nhận như cuộc tiến công của một “binh chủng” đặc biệt khi Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam xuất hiện tại Sài Gòn, được ví như một đoạn kết huy hoàng cho chiến thắng mùa xuân năm 1975.

 

Sau một thời hậu chiến đầy sóng gió, sinh hoạt khí nhạc chuyên nghiệp ở Thủ đô đã đi qua cơn bĩ cực để hướng tới hồi thái lai. Như để bù lại những tháng ngày lặng câm, dàn nhạc của ta với lực lượng nhạc công trẻ trung và được đào tạo chính quy lại hào hứng cất tiếng khẳng định “tầm cỡ khu vực” của mình.

 

Hiện nay, bên cạnh Dàn nhạc Giao hưởng quốc gia còn có Dàn nhạc Giao hưởng Nhạc viện Hà Nội và Dàn nhạc Nhà hát Nhạc vũ kịch; bên cạnh các nhạc trưởng của Thủ đô: Trọng Bằng, Đỗ Dũng, Cao Việt Bách, Đỗ Hồng Quân, Nguyễn Thiếu Hoa..., còn thường xuyên có mặt các nhạc trưởng sống xa Tổ quốc mà vẫn được coi là người Hà Nội gốc: Nguyễn Thiên Đạo, Lê Phi Phi, và cả các nhạc trưởng ngoại quốc cũng trở nên thân thuộc như người nhà: Yoshizaku Fukumura (Nhật), Colin Metters (Anh), Tetsuji Honna (Nhật), Graham Sutcliff (Anh)...

 

Thủ đô là nơi sinh ra và hội tụ nhiều tay đàn cự phách. Họ giữ vai trò cầu nối giữa tác phẩm với công chúng, trước hết với công chúng Thủ đô, công chúng trong nước và còn xa hơn thế. Không ít người từng thi thố tài năng trên “đấu trường” quốc tế và một số nghệ sĩ bằng chiến thắng của mình đã cho thế giới biết đến một quốc gia gần như vô danh trên bản đồ âm nhạc hàn lâm. Sự hội nhập ngày càng hiệu quả hơn một phần nhờ những đứa con Hà Nội xa xứ đang trở thành những “đại sứ” văn hóa nghệ thuật người Việt trên diễn đàn âm nhạc thế giới.

 

Gắn bó với các chương trình hòa nhạc trên sân khấu, trên sóng phát thanh truyền hình cả nước là những tên tuổi đã hoặc đang mang hộ khẩu Hà Nội, như các nghệ sĩ violon: Tạ Bôn (1942), Khắc Huề (1944), Ngô Văn Thành (1951), Trần Mạnh Hùng (1956)...; các nghệ sĩ piano: Hoàng My (1941-1990), Nguyễn Hữu Tuấn (1942-2004), Nguyệt Minh (1950), Đặng Thái Sơn (1958)...; các nghệ sĩ violoncelle: Vũ Hướng (1934), Bùi Gia Tường (1937), Ngô Hoàng Quân (1956), Trần Thị Mơ (1959)...; các nghệ sĩ hát: Trần Hiếu (1936), Quý Dương (1937), Trung Kiên (1939), Lê Dung (1951-2001)...

 

Tác phẩm được trình diễn mà không nhận được phản hồi từ phía người nghe thì khác nào bị ném vào hư không, để rồi chẳng mấy lúc bị quên lãng như chưa từng có mặt trên đời. Thế nên vẫn chưa thể nói tác phẩm có một đời sống xã hội thực sự nếu chuỗi liên hoàn khuyết mất mắt xích cuối cùng: công chúng.

 

Nhân vật thứ ba: người đón nhận tác phẩm vào đời

Nhạc hàn lâm vốn là nghệ thuật kén khách. Thính giả biết nghe và có nhu cầu thưởng thức nhạc đàn và hợp xướng xưa nay vẫn không thuộc về số đông. Vì số lượng nhỏ bé ấy chủ yếu nằm trong địa bàn Hà Nội nên ở lĩnh vực này, thính giả Thủ đô vẫn được coi là dân sành điệu nhất.

 

Người Hà Nội bắt đầu làm quen với nhạc đàn và hợp xướng từ những năm đầu thế kỷ XX qua sinh hoạt âm nhạc của nhà thờ, của dàn kèn nhà binh, của phong trào hướng đạo sinh, qua nhạc giải trí của phòng trà, quán bar, rạp chiếu bóng… Ngay từ thời ấy, dân Hà thành cũng từng được thưởng thức chút hương vị nhạc Cổ điển, Lãng mạn châu Âu qua đĩa hát và những buổi lưu diễn của nhạc công nước ngoài.

 

Như người bạn đường chung tình, công chúng Thủ đô đã đồng hành theo từng bước trưởng thành từ đầu nửa sau thế kỷ XX của các nhạc công và nhạc sĩ Việt Nam. Những năm 60, người nghe hân hoan xúc động trước những buổi ra quân tại Nhà hát Lớn của dàn nhạc ta với đôi ba giao hưởng của Mozart, Beethoven và vở nhạc kịch Ep-ghê-nhi Ô-nhê-ghin (Egène Onéguine) của Tchaikovsky.

 

Họ còn là nhân chứng của nhiều cột mốc khởi nguồn cho sáng tác khí nhạc, là thính giả đầu tiên đón nhận những thử nghiệm đầu tay của giới cầm bút, như tiểu phẩm thính phòng Ra khơi cho violon và piano (Tạ Phước) năm 1942, hòa tấu nhạc cụ truyền thống Nông thôn đổi mới (Tô Vũ và Tạ Phước) năm 1957, ouverture Đợi chờ (Tạ Phước) năm 1958, vở ca kịch về Hà Nội Qua cầu sông Cái (Nguyễn Xuân Khoát) vào cuối thập niên 50.

Công chúng Hà Nội đã chứng kiến buổi ra mắt ca múa cảnh Hái hoa dâng Bác (Vĩnh Cát), hai kịch múa Ngọn lửa Nghệ Tĩnh (Lương Ngọc Trác, Huy Thục, Nguyễn Thành) và Tấm Cám (Nguyễn Văn Thương, Văn Chi) vào năm 1960. Những năm 60 - thập niên vàng của khí nhạc Việt Nam - tiếp tục mở màn cho thể loại thơ giao hưởng: Thành đồng Tổ quốc (Hoàng Vân) và Lửa cách mạng (Trần Ngọc Xương), cho các thể loại lớn: liên khúc giao hưởng Quê hương (Hoàng Việt) và nhạc kịch Cô Sao (Đỗ Nhuận). Thuận đà xốc tới, thể loại nhạc kịch còn công diễn thêm các vở Bên bờ K’rông Pa (Nhật Lai) và Người tạc tượng (Đỗ Nhuận).

 

Bên cạnh một vài vở nhạc kịch kinh điển thế giới - như Fidelio (Beethoven), Madam Butterfly (Puccini)... - dàn dựng vào thập niên 70, công chúng Thủ đô còn đón nhận một mùa bội thu của thể loại “cây nhà lá vườn” có tên gọi là kịch hát mới, với hàng loạt vở diễn liên tiếp ra đời vào cuối thập niên 80, như: Xin lĩnh án tử hình (Vĩnh Cát), Chuyện tình Tiên Du (Phó Đức Phương), Duyên nợ tình đời (Đặng Nguyễn), Nàng công chúa lên rừng (Văn Thành Nho), Huyền thoại về một mối tình (An Thuyên), Câu chuyện tình (Đỗ Hồng Quân), Yêu trước Phật đài (Trọng Đài)...

 

Sự bùng phát tuy ngắn ngủi loại kịch hát mới đó đã phản ánh khát vọng tìm tòi của giới sáng tác chuyên nghiệp trong những thể nghiệm pha trộn phương tiện biểu hiện của nhạc kịch (opéra) và nhạc giải trí phương Tây với một số yếu tố nhạc sân khấu truyền thống của ta, nhằm tạo ra một loại hình âm nhạc sân khấu tổng hợp vừa sức với khả năng sáng tác, biểu diễn và quan trọng hơn cả là thích hợp với trình độ thưởng thức của công chúng Việt Nam.

 

Lại cũng giới yêu nhạc hàn lâm ở Thủ đô chứng kiến sự hồi sinh không dễ dàng của nhạc giao hưởng thính phòng vào những năm 90. Vượt qua cơn lốc nhạc giải trí theo thị hiếu số đông, Hà Nội không hoàn toàn bỏ quên nhu cầu thưởng thức khí nhạc của một phần rất nhỏ trong công chúng.

Đêm nhạc kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội vào năm 2000 đã đem lại cho thính giả Thủ đô những tác phẩm giao hưởng dành tặng Thủ đô: bản khởi nhạc tùy hứng Chào năm 2000 - chào thiên niên mới (Trọng Bằng), thơ giao hưởng Rồng - Tiên (Ngô Quốc Tính)[1], giao hưởng số 3 Thăng Long thiên niên kỷ (Trần Trọng Hùng) và giao hưởng Sóng hồn (Nguyễn Thiên Đạo).

 

Bước sang thế kỷ XXI, công chúng Thủ đô bắt đầu làm quen với các “Đêm tác giả” chỉ thuần khí nhạc, trong đó giới thiệu những tác phẩm giao hưởng, hợp xướng về Hà Nội hoặc viết tại Hà Nội của một tác giả, như chương trình của các nhạc sĩ Vĩnh Cát năm 2002, Hoàng Vân năm 2005, Đỗ Dũng năm 2007.

 

Gần đây nhất có một sự kiện khí nhạc được báo chí luận bàn rôm rả, chứng tỏ đã để lại ấn tượng không nhỏ cho công chúng, đó là cuộc trình diễn trong Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc năm 2008 tại Hà Nội bản Khai giác (Nguyễn Thiên Đạo), một tác phẩm giao hưởng hợp xướng hoành tráng với kỷ lục 500 người diễn.

 

Dù còn ở tỉ lệ rất thấp nhưng thành phần nghe nhạc “có tri thức” đang tăng dần và trở thành một trong những động lực thúc đẩy chất lượng những món ăn tinh thần “made in Việt Nam”, vì như ta vẫn biết, tác phẩm khí nhạc chỉ thực sự sống khi nó được vang lên bằng âm thanh, đủ sức thuyết phục và chiếm được chỗ đứng trong lòng thính giả.

 

Phần lớn các tác phẩm nhạc đàn và hợp xướng trong gia tài âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam đều liên quan tới Hà Nội: thuộc đề tài Hà Nội hoặc tác giả Hà Nội, được viết tại Hà Nội hoặc được dàn dựng và công diễn lần đầu tại Hà Nội. Song chỉ những câu chuyện âm nhạc kể về mảnh đất này mới là trọng tâm của các chặng đường tiếp theo.

 

 (Còn nữa)

 

Trích chuyên luận Hà Nội trong những tác phẩm "lớn hơn ca khúc" (2009)

 

[1] Thơ giao hưởng Rồng - Tiên của Ngô Quốc Tính sau đổi tên thành Rồng bay rùa hát.

 

Các phần khác:

HÀ NỘI TRONG NHỮNG TÁC PHẨM “LỚN HƠN CA KHÚC” (Phần 1)

HÀ NỘI TRONG NHỮNG TÁC PHẨM “LỚN HƠN CA KHÚC” (Phần 3)
HÀ NỘI TRONG NHỮNG TÁC PHẨM “LỚN HƠN CA KHÚC” (Phần 4)
HÀ NỘI TRONG NHỮNG TÁC PHẨM “LỚN HƠN CA KHÚC” (Phần 5)
HÀ NỘI TRONG NHỮNG TÁC PHẨM “LỚN HƠN CA KHÚC” (Phần 6)
HÀ NỘI TRONG NHỮNG TÁC PHẨM “LỚN HƠN CA KHÚC” (Phần 7)
HÀ NỘI TRONG NHỮNG TÁC PHẨM “LỚN HƠN CA KHÚC” (Phần 8)

Chia sẻ:
facebook share
instagram share instagram share

Xem nhiều