Tác giả: Phạm Minh Hương
(Tiếp theo)
* Giai đoạn sau năm 2001 là giai đoạn mà Kim Ngọc gọi là “khi tôi tìm thấy ngôn ngữ chuyển tải phù hợp là mix-media (hình thức chuyển tải bằng phương tiện tổng hợp)”. Từ tác phẩm Giấc mơ của những đứa bé lang thang sáng tác vào năm 2002 là thời điểm nữ nhạc sĩ bắt đầu xây dựng ngôn ngữ chuyển tải bằng phương tiện tổng hợp. Trải qua quá trình thể nghiệm, xây dựng, bồi đắp, loại hình ngôn ngữ này dần được tác giả sử dụng ngày một nhuần nhuyễn hơn qua từng tác phẩm. Các sáng tác của Kim Ngọc giai đoạn này có thể kể tới:
- Giấc mơ của những kẻ lang thang (Vagabonds’ Dream). Thể loại Figurative Music-Theatre - âm nhạc trình diễn mang tính sân khấu tượng hình với sự tham gia của 7 nhạc công kiêm diễn viên, 2002.
- Những ngón chân (Toes). Thể loại Music - Theatre với sự tham gia của kèn bóp (sona), đàn Kayagum, 1 violoncelle, 2 Pendirs (1 loại trống của Thổ Nhĩ Kỳ) và Sound Tape, 2003.
- Gió Nồm (Monsun). Thể loại Music - Theatre với sự tham gia của 4 cymbals và những đôi bàn tay, 2003.
- Sự vắng mặt (Absence). Thể loại Music-Theatre dành cho 4 cymbals, 1 giọng hát nữ với máy tính, âm thanh điện tử, một vũ công nam và một nhà sư. Biểu diễn tại Muenchener Biennale Festival 08 -15/05/2006.
- Ai đem con nhện giăng mùng (What Makes The Spider Spin Her Web). Thể loại Music-Theatre với sự tham gia của 1 giọng hát nữ, âm nhạc điện tử, ánh sáng, sân khấu, hiệu ứng nhà hát, động tác và video. Một sản phẩm đặt hàng của Viện Goethe Hanoi, 2007.
- Ngôi nhà mở (Open House).Âm nhạc điện tử, 2008.
- Tứ Bình - Tố nữ (Quartet Painting- Beautiful Young Ladies). Tác phẩm âm nhạc có sử dụng những yếu tố diễn xuất sân khấu dành cho 1 người trình diễn dựa trên nội dung bộ tranh Tứ Bình, 2009.
- Cùng nhau đơn độc (Together Alone). Thể loại Music theatre với sự tham gia của bộ gõ, đàn tranh, đàn bầu, viola, vocal, 1 nhạc sĩ dùng máy tính và 1 nghệ sĩ trình diễn, 2010.
- Thế giới Mỵ Châu (My Chau ‘s World). Thể loại Music theatre dành cho viola, đàn bầu, clarinet, 2 trumpets, trombone, tuba và bộ gõ. Tác phẩm theo đơn đặt hàng của Viện Goethe Hà Nội, 2010.
- Con OEE. Tác phẩm sắp đặt âm thanh, hình ảnh với những yếu tố trình diễn âm nhạc, đọc thơ và hành động sân khấu, múa dành cho 2 người trình diễn/hát và âm nhạc điện tử, 2015.
- Hồ Nguyệt Cô hóa cáo. Thể loại Music theatre với sự tham gia của video, hòa tấu nhạc đương đại gồm: violon, flute, clarinette, piano và bộ gõ, 2018.
- Đàn bà tẩu thoát (Woman Escape). Tác phẩm sắp đặt trình diễn video và âm nhạc, 2022.
Nhìn vào các thành tố tham gia chuyển tải nội dung các tác phẩm trong giai đoạn này của nhạc sĩ Kim Ngọc, có thể thấy sự đa dạng, linh hoạt trong việc sử dụng phương tiện biểu hiện của tác giả. Đối với mỗi tác phẩm, tùy thuộc vào ý tưởng nội dung, cảm thức, cảm hứng tại chỗ, nữ nhạc sĩ lại khai thác một hay nhiều phương tiện thể hiện khác nhau. Hãy cùng theo dòng chia sẻ của Kim Ngọc để có thể hình dung được cụ thể hơn về việc sáng tạo một tác phẩm âm nhạc thể nghiệm:
“Hồi làm Ai đem con nhện giăng mùng, tôi nhớ xuất phát điểm là hôm ấy ông giám đốc Viện Goethe nói là muốn làm một cái ở sân Viện Goethe… Thực ra là cảm thức thì mình có sẵn, nhưng đôi khi tất cả những yếu tố cụ thể mà tôi đưa vào tác phẩm là được lấy cảm hứng từ không gian cụ thể, hoặc một vài chi tiết xung quanh mình. Tôi đang vật lộn trong ý tưởng, thì nhìn thấy bức tường to ở sân Viện Goethe, lúc đó tôi hình dung ra luôn, tôi muốn nhân vật nữ của mình chuyển động như một bức tranh chậm cùng với âm nhạc trên bức tường to. Nó như những bức tranh chuyển động chứ không phải video. Nếu như làm tranh chuyển động mà chỉ làm sân khấu hay ánh sáng thôi thì không đủ nên tôi đưa thêm video art vào tác phẩm đấy. Cùng với nó tôi phát triển ý tưởng cả về sân khấu cùng với chuyển động của hình ảnh như thế nào, tôi đứng ở giữa biểu diễn như thế nào, âm nhạc ra sao. Tôi sáng tác luôn cùng lúc tất cả những cái đó…
Thế giới Mỵ Châu cũng là một đặt hàng khác của Viện Goethe dành cho dàn nhạc Musik Fabrik - dàn nhạc đương đại chuyên nghiệp của Đức. Lúc đấy tôi vẫn cảm thấy chưa xong với chủ đề về tính nữ, vẫn muốn tiếp tục nên chọn nhân vật Mỵ Châu, và tôi bị ám ảnh bởi nhân vật đó, câu chuyện đó. Nhưng vì đầu bài là viết cho dàn nhạc đương đại gồm 7 thành viên nên đó chính là gợi ý về cấu trúc âm nhạc của tác phẩm và hình thức xuất hiện trên sân khấu. Lúc đó tôi mới nảy sinh ra ý tưởng làm một quả cầu, tôi sẽ ngồi ở giữa và mặc một bộ quần áo lông chim, để cuối bài tôi sẽ giật từng chiếc thổi bay lên. Dàn nhạc toàn là nam sẽ đứng xung quanh, mỗi người chơi một nhạc cụ… Sự thay đổi ánh sáng trên sân khấu sẽ như vẽ tranh. Khi đã nghĩ về thị giác, không thể thiếu ánh sáng được. Sự thay đổi những mảng miếng ánh sáng có giá trị như một thành tố âm thanh khác. Trong một tác phẩm multi media, tất cả đều là những thành tố thể hiện với vai trò cân bằng”.
Con OEE là một tác phẩm thuộc hình thức trình diễn âm nhạc sắp đặt (music performance installation) với rất nhiều thứ được đưa trong đó. “Thực ra đó là một cách tôi đọc tiểu thuyết thơ Zờ Zoạc của Trần Dần. Khi đọc, tôi thấy trong đó có một kiểu polyphony về cốt truyện, có nghĩa là 5 nhân vật cùng kể về một câu chuyện theo 5 cách kể khác nhau. Khi không quen sẽ rất là loạn, nhưng nếu tìm được đường vào thì sẽ thấy rất thú vị . Có nghĩa là cùng một lúc mình trải nghiệm được một câu chuyện từ 5 góc nhìn, như kiểu dạng polyphony. Tôi nghĩ là không biết dùng hình thức nghệ thuật đa phương tiện nào để có thể chuyển tải được tính polyphony trong cấu trúc truyện Zờ Zoạc của ông Trần Dần. Tôi mới sử dụng nhiều lớp. Tôi chọn một số bài thơ có tính nhạc và quy các nhân vật trong truyện thơ thành hai tuyến nhân vật nam và nữ. Tôi viết một kịch bản, đọc, rồi quay phim phần trình diễn, có đọc, có hát thơ, có múa, có động tác. Đầu tiên là trình diễn hát thơ của tôi và anh Sơn. Khi quay đã phải có hình dung sau này chiếu như thế nào, mô phỏng lại không gian bốn bức tường, khán giả xem đứng ở giữa những mảng tường có chiếu hình ảnh người thật, phòng chỉ 30-40m2 là tối đa, người xem khoảng 5-10 người. Tất cả đều do ý đồ của mình quy định”. Con OEE là một tác phẩm mà nhạc sĩ Kim Ngọc rất tâm đắc và ưng ý.
Chọn và khẳng định mix-media là ngôn ngữ nghệ thuật cho sự nghiệp sáng tạo của mình, Kim Ngọc chia sẻ: “Cái mix-media không có điểm kết thúc. Nó là n khả năng trong tương lai. Đấy chính là thứ hấp dẫn tôi. Cứ tưởng sau hai-ba tác phẩm, là quen viết. Không phải, cái sau lại có cái khác đưa vào. Cho nên chả bao giờ mình thấy thực sự làm chủ được kỹ thuật sáng tác đó. Mỗi tác phẩm là một hành trình mới, cái đó luôn kích thích tôi”.
Mỗi tác phẩm là một hành trình thể nghiệm mới. Vậy có hay không sự biến đổi, trưởng thành trong tư duy của nhạc sĩ được biểu hiện qua các tác phẩm? Mặc dù nữ nhạc sĩ cho rằng chẳng có biến chuyển gì trong nhận thức, mà đơn thuần nó chỉ là con đường tự đi với sự chuyển động của cảm thức, nhưng bản thân tôi khi tiếp cận với các tác phẩm của Kim Ngọc, đặc biệt là chuỗi tác phẩm liên quan đến chủ đề về tính nữ lại cảm thấy khá rõ ràng sự thay đổi trong tư duy của nhạc sĩ. Chuỗi tác phẩm về tính nữ được bắt đầu từ các tác phẩm biểu đạt bằng âm nhạc thuần túy là Dậy thì, Cái eo lưng, sau đó là các tác phẩm mix-media: Ai đem con nhện giăng mùng, Tứ Bình - Tố Nữ, Thế giới Mỵ Châu, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo, Đàn bà tẩu thoát. Đeo đuổi chủ đề về tính nữ bởi tác giả thấy mình trong đó, muốn thể hiện mình ở các tác phẩm đó, và cho đến nay chủ đề này dường như vẫn chưa hết “hot”, vẫn đầy sức hấp dẫn đối với Kim Ngọc. Nữ nhạc sĩ quan niệm: chuỗi tác phẩm về tính nữ chỉ là những mảnh ghép, là những cảm thức gợi mở sự sáng tạo của cá nhân ở một thời điểm nào đó. Nhưng nhìn vào tiêu đề của các tác phẩm cho người ta cảm giác về một sự biến chuyển trong tư duy:
- Dậy thì - tạo cảm giác thiên về chu trình sinh học, có tính dục.
- Cái eo lưng - tạo hình ảnh rất cụ thể về hình thể người phụ nữ, mềm mại, nuột nà.
- Ai đem con nhện giăng mùng, Tứ Bình - Tố Nữ, Thế giới Mỵ Châu, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo - tất cả đều gợi lên một cốt truyện, một ý niệm về văn hóa truyền thống cho dù nội dung biểu đạt có hay không có yếu tố truyền thống. Và như thế câu chuyện về thân phận, về các góc độ khác nhau của người phụ nữ được truyền tải đến người xem thông qua gợi mở từ những ý niệm truyền thống dù cố tình hay vô tình.
- Đàn bà tẩu thoát - là sự thể hiện trực tiếp những ý niệm, quan điểm về cuộc sống, ước vọng, khao khát của người phụ nữ.
Như thế, dường như có một sợi dây liên kết, một diễn trình bộc lộ sự trưởng thành trong tư duy của tác giả qua chuỗi tác phẩm này. Điều này có thể sẽ gợi mở cho những tìm hiểu nghiên cứu sâu hơn về các tác phẩm này.
Một điểm nổi bật trong hành trình sáng tạo của nhạc sĩ Kim Ngọc là ý thức đưa yếu tố truyền thống hay bản địa theo cách gọi của tác giả vào trong mọi tác phẩm. Như đã nói ở trên, ý thức này được người cha định hướng ngay từ khi Kim Ngọc mới chập chững những bước đầu tiên trên hành trình sáng tác âm nhạc.
“Ngày mới bắt đầu học sáng tác, thỉnh thoảng ông lại nhắc một hai câu về điều việc dùng ngũ cung cho có tính Việt Nam, chứ ông cũng không nói gì nhiều, nhưng nó như một định hướng. Tính dân tộc đối với bố tôi và các nhạc sĩ thời đó chỉ là ngũ cung. Khi mới dạy tôi mấy buổi đầu tiên về cách phát triển chủ đề thôi, bố tôi đã nói về việc đó. Khi tôi viết prelude đầu tiên cho flute và piano (phát triển lấy cảm hứng từ tiếng còi tàu hàng đêm, gợi lên cho mình một không gian suy tư). Tôi tìm được một thang âm hơi có tính mô phỏng lại một tí tiếng còi tàu. Tôi cũng làm thử với việc phát triển chủ đề chính. Gợi ý đó của bố tôi như một bệ phóng giúp tôi phát triển cho hoàn hảo. Tôi nghĩ rằng nếu không có gợi ý đó thì đến một lúc nào đó tôi cũng sẽ tìm ra một cách nào đó, nhưng như thế sẽ mất thời gian hơn, và mất nhiều tác phẩm hơn mới đến được điều đó. Và nhờ gợi ý đó tôi làm một phát ăn luôn và bài đó khá là thành công, được Hội Nhạc sĩ gọi biểu diễn mấy lần. Sau này mới viết đương đại, chứ hồi đó viết giống như Debussy, Ravel”.
Như thế, từ thuở ban đầu, yếu tố dân tộc truyền thống đã luôn hiện hữu trong các tác phẩm của Kim Ngọc dưới dạng khai thác, sử dụng chất liệu như bao nhạc sĩ khác. Chất liệu đó có thể là nhân vật, giai điệu, nhạc cụ. Nhưng càng về sau “chất dân tộc” bộc lộ trong các tác phẩm của Kim Ngọc theo một cách tự nhiên hơn, nhuần nhị hơn cho dù không có chủ đích tạo ra điều đó như tác giả chia sẻ. Kim Ngọc quan niệm mình là người Việt Nam, được sinh ra và nuôi dưỡng trong môi trường sinh thái và văn hóa bản địa, các sáng tạo của bản thân cũng phải là một thứ hút sinh khí, hít thở khí quyển ở đây, hút dinh dưỡng của đất này đẻ ra. Và vì thế, nữ nhạc sĩ không muốn cố tình tạo ra tính bản địa, tính Việt Nam cho các sáng tạo của mình theo cách nhiều người hay làm là khai thác chất liệu dân tộc sẵn có mà muốn nó bộc lộ theo một cách bản năng tự nhiên từ bên trong. Đó là lý do Kim Ngọc đi học hát Chèo, học chơi đàn tranh để thấm chất bản địa trong người, tự trong người hình thành văn hóa Việt Nam. Lúc này ở các tác phẩm có thể có hoặc không những biểu hiện cụ thể của chất liệu âm nhạc truyền thống nhưng tính bản địa thấm đẫm trong người sẽ tự bộc lộ qua ý tưởng, cấu trúc tác phẩm, qua hình ảnh, câu chuyện bản địa và bất cứ cái gì khác hiện hữu trong tác phẩm. Đây là cách mà nhạc sĩ Kim Ngọc thực hiện để đi tìm và xây dựng một bản dạng văn hóa thể nghiệm đương đại của Việt Nam, một ngữ pháp bản địa cho âm nhạc đương đại Việt Nam. Nó là mục tiêu xuyên suốt không chỉ trong hoạt động sáng tác mà cả trong các công việc phát triển xã hội đã và đang được nữ nhạc sĩ thực hiện như thành lập Trung tâm Đom Đóm, dạy học, tổ chức Liên hoan âm nhạc… Từ đó, từng bước lan tỏa và định hình bản dạng văn hóa thể nghiệm đương đại của Việt Nam.
“Tôi muốn không chỉ đi xác định bản dạng văn hóa thể nghiệm đương đại Việt Nam mà còn phải tìm cách tìm ra một con đường để tạo ra những định nghĩa mới cho âm nhạc thể nghiệm từ văn hóa bản địa”.
Vậy TA LÀ AI? sau một hành trình dài hơn 30 năm sáng tác thể nghiệm?
PHẢI CHĂNG LÀ MỘT NGƯỜI SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI BẢN ĐỊA VIỆT NAM?
Nguồn: t/c Nghiên cứu âm nhạc (Viện Âm nhạc)